Nhà thơ Du Tử Lê qua đời ngày 7/10 tại Mỹ. Sinh thời, ông có hơn 300 tác phẩm thơ được phổ nhạc. Trong số đó, Khúc Thụy Du là bài nổi tiếng nhất. Bài thơ ra đời năm 1968, khi ông 26 tuổi, sống ở TP HCM. Bản gốc Khúc Thụy Du dài hơn 100 câu, khi in trên tạp chí bị cắt hai phần ba, tác giả sau này cũng không còn nhớ được bài thơ gốc nên sử dụng văn bản đã lược đi để in sách.
Khi còn sống, nhà thơ chia sẻ bài thơ là kỷ niệm tình yêu giữa ông và một sinh viên ngành dược. Ông đã lấy tên đệm của cô gái - Thụy, cộng với chữ đầu trong bút danh của mình - Du - làm nhan đề. Cảm hứng buồn thương là sợi dây xuyên suốt tác phẩm: "Nó như một cộng nghiệp hay chung một tai họa, một tuyệt lộ", Du Tử Lê từng nói.
"Tuổi đời còn trẻ nhưng khi chứng kiến đất nước trong thời chiến tranh, loạn lạc, nhà thơ bật ra những suy tư nặng trĩu về cuộc đời. Câu chữ trong thơ ông chứa đựng nhiều khắc khoải, lột tả tâm trạng mòn mỏi của thi sĩ. Đoạn một của bài thơ vì thế có nhiều hình ảnh u ám, gợi liên tưởng đến cái chết thông qua hình ảnh chim bói cá", nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên nói.
như con chim bói cá
trên cọc nhọn trăm năm
tôi tìm đời đánh mất
trong vụng nước cuộc đời
như con chim bói cá
tôi thường ngừng cánh bay
ngước nhìn lên huyệt lộ
bầy quạ rỉa xác người
(của tươi đời nhượng lại)
bữa ăn nào ngon hơn
làm sao tôi nói được
Trên nền bối cảnh u ám, đoạn hai tác phẩm nói về tình yêu của những người trẻ với những khát khao cháy bỏng giữa dòng đời nhiều bất an, xáo trộn. Ông liên tiếp đặt ra những câu hỏi không lời đáp, thể hiện khát khao gắn kết trong tình yêu.
vì sao mình yêu nhau
vì sao môi anh nóng
vì sao tay anh lạnh
vì sao thân anh rung
vì sao chân không vững
vì sao anh van em...
Thụy ơi và Thụy ơi
không còn gì có nghĩa
ngoài tình anh tình em
đã ướt đầm thân thể
Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên nhận xét: "Tác phẩm thể hiện phong cách ngôn ngữ đặc trưng của Du Tử Lê, nhiều day dứt, tuyệt vọng. Ngoài gửi gắm mong ước cuộc tình kéo dài mãi mãi kể cả khi chết đi, bài thơ là tiếng cảm thán về số phận hữu hạn, mong manh của mỗi người. Khi được thổi hồn bằng ngôn ngữ âm nhạc, tác phẩm có chiều sâu, dễ đi vào lòng người hơn".
Nhạc sĩ Anh Bằng lấy nhiều câu trong đoạn hai, đồng thời sáng tạo thêm một số ý để phổ nhạc. Ông lược bỏ những ý thơ tang tóc, giữ lại những hình ảnh đẹp, lãng mạn. Ca khúc của Anh Bằng vẫn vương vất những nỗi ám ảnh của Du Tử Lê nhưng nhẹ nhàng hơn, tựa như một giấc mộng nửa hư nửa thực. Khung cảnh chiến tranh, chết chóc trong bài thơ lùi xa, chỉ còn lại bức tranh tình yêu đôi lứa.
Anh là chim bói cá
Em là bóng trăng ngà
Chỉ cách một mặt hồ
Mà muôn trùng chia xa
Hình ảnh ánh trăng, mặt hồ gợi sự vỡ vụn, chia ly. Một làn sóng động cũng khiến ánh trăng tan vỡ. Ám ảnh về sự mong manh trong tình yêu còn được thể hiện qua cảm xúc mê đắm của nhân vật trữ tình. Dù trải qua nhiều đau khổ, tác giả vẫn cảm nhận tình yêu "êm ái và ngọt ngào".
Hãy nói về cuộc đời
Tình yêu như lưỡi dao
Tình yêu như mũi nhọn
Êm ái và ngọt ngào
Tình yêu trong Khúc Thụy Du của Anh Bằng mãnh liệt, đắm say. Nhân vật trữ tình sẵn sàng vượt qua định mệnh ngang trái để tận hiến. Bài hát được sáng tạo thêm câu hỏi tu từ: "Cắt đứt cuộc tình đầu. Thuỵ bây giờ về đâu", khắc họa rõ thêm sự day dứt dành cho nửa kia trong tình yêu.
Ca khúc được viết theo nhịp 3/4, chậm rãi và sâu lắng với nhiều đoạn luyến láy tình tứ. Giọng hát giàu chất tự sự của Tuấn Ngọc giúp ca khúc dễ đi sâu vào lòng người. Khi thưởng thức Khúc Thụy Du, người nghe chìm đắm trong nhiều câu hỏi về thân phận con người, những điều đã đánh mất trong cuộc sống, sự mong manh, hữu hạn của tình yêu...
Một số khán giả từng nhận xét ca khúc không truyền tải hết nội dung trong bài thơ của Du Tử Lê. Tuy nhiên, nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên cho rằng: "Nhạc sĩ cũng là một độc giả. Khi đọc bài thơ, họ phổ nhạc theo cảm nhận của riêng mình. Trong trường hợp này, Anh Bằng không làm mất đi tinh thần của văn bản gốc. Ngược lại, ca khúc đã mang tác phẩm đến gần hơn với độc giả, đồng thời khiến họ cảm nhận sâu sắc ý nghĩa của áng thơ Du Tử Lê. Đó là sự tương hỗ giữa thơ và nhạc".
Hà Thu