![]() |
TS. Vũ Đình Ánh: "Trong giai đoạn tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, việc hình thành thêm một siêu tổng công ty có tính độc quyền có là điều cần thiết?" |
Ông chia sẻ:
- Quan điểm của tôi là không xem xét thành lập công ty mua bán nợ.
Thứ nhất, trong nền kinh tế Việt Nam, nợ xấu quy mô lớn chỉ là một vấn đề nhưng không phải là mối lo quan trọng nhất hiện nay.
Cái khó nhất của nền kinh tế lúc này là giải quyết tình trạng sức mua giảm, dẫn đến tồn kho cao, đầu ra không có lời giải lại dẫn tới tình trạng thất nghiệp, thu nhập không ổn định, nhu cầu tiêu dùng sẽ không phát sinh. Đây là hệ quả tất yếu của tình trạng lạm phát cao, tăng trưởng thấp.
Như vậy, nợ xấu chỉ là hệ quả của khó khăn kinh tế. Giả định, các doanh nghiệp vẫn có đầu ra tốt, tồn kho ít, thì nợ xấu không thể cao đến mức như hiện nay.
Mặt khác, một trong những mục tiêu của việc giải quyết nợ xấu là cải thiện điều kiện tiếp cận tín dụng cho doanh nghiệp. Nhưng bản chất nợ xấu không phải như vậy, một phần nguyên nhân là do cho vay thiếu kiểm soát. Tôi rất tán đồng quan điểm của một chuyên gia nước ngoài: “Việc xử lý nợ xấu theo kiểu thành lập công ty mua bán nợ sẽ chẳng khác gì trao phần thưởng cho những kẻ đã làm sai”. Không chỉ vậy, cách làm này thậm chí có thể khuyến khích những kẻ khác cố tình làm sai, vì nghĩ làm xấu vẫn được cứu.
Thứ hai, nợ xấu của Việt Nam không giống những nước khác. Nó gắn với nợ khu vực doanh nghiệp nhà nước, dù đến thời điểm này, dư nợ các doanh nghiệp trong tổng nợ xấu vẫn chưa được công bố.
Thêm vào đó, nợ xấu gắn với đầu tư công. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam nhận dự án có vốn từ ngân sách nhà nước và vay ngân hàng để làm dự án. Sau đó, ngân sách không có vốn để rót cho dự án dẫn đến tình trạng nợ nần của doanh nghiệp. Cuối cùng, món nợ biến thành nợ của doanh nghiệp với ngân hàng. Ngoài ra, bản chất nợ xấu ở Việt Nam không phải tại ngân hàng, rất nhiều trong các khoản này là cho vay theo chỉ định.
Tóm lại, bản chất rất riêng của nợ xấu hiện nay cho thấy không cần thiết phải thành lập công ty mua bán để xử lý nợ. Thay vào đó, việc xử lý nợ xấu chỉ nên xem như một phần trong chương trình tổng thể tái cơ cấu đầu tư công, gắn với tái cơ cấu kinh tế và tái cơ cấu hệ thống tài chính theo Nghị quyết 13.
Về hướng xử lý, chúng ta nên dùng phương thức thanh toán bù trừ thay vì ngân sách rót cho các nhà băng để mua lại phần nợ xấu, ví dụ phát hành trái phiếu cho các khoản nợ theo dạng viết giấy vay nợ. Với cách này, doanh nghiệp từ vị trí nợ sẽ đổi thành Nhà nước nợ qua kênh trái phiếu.
Để việc xử lý nợ xấu được thực hiện, thị trường nợ cần được hình thành và vận hành, trong đó bản thân người mua - bán tự có cơ chế làm việc với nhau. Chẳng hạn, người mua và người bán tự làm việc với nhau hoặc hình thành các định chế hỗ trợ, gồm các công ty đánh giá tài sản, doanh nghiệp định giá nợ. Để làm được điều trên, mỗi người, mỗi đơn vị cần hiểu bản chất từng khoản nợ. Tuy nhiên đến nay, đây vẫn là một câu hỏi lớn.
Hiện tại, thị trường mua bán nợ Việt Nam vẫn chưa phát triển vì không có khuôn khổ pháp lý, quy định rõ luật chơi cho những người tham gia, cách xử lý tài sản đảm bảo. Chẳng hạn, các công ty mua bán nợ ngân hàng, quỹ, doanh nghiệp bảo hiểm có được tham gia thị trường hay không?
Như vậy, để vận hành trên thị trường tài chính, bên cạnh cổ phiếu, trái phiếu chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp, chúng ta cần một loại tài sản nữa là “nợ đã biến thành giấy”. Khi thị trường này phát triển, các sản phẩm phái sinh sẽ đa dạng hơn và nợ chỉ còn là một loại hàng hóa.
Tôi cho rằng đã đến lúc phải hình thành dạng thị trường này. Việc xử lý nợ hiện nay không như nhiều năm trước vì thị trường đã rộng mở, đa dạng đối tượng, quy mô cũng hoàn toàn khác. Do đó, chúng ta cũng không thể lặng lẽ thực hiện. Về thời gian xử lý, chúng ta không nên kỳ vọng việc có thể giải quyết nhanh, vấn đề này cần có quá trình gắn với tái cơ cấu nền kinh tế.
Ngoài ra, một điểm đáng chú ý, nguyên nhân gây nên nợ xấu là sở hữu chéo. Nếu không xử lý được tình trạng này thì sẽ không giải quyết được vấn đề nợ xấu hiện nay. Sở hữu chéo khiến chúng ta khó nhận dạng con nợ và chủ nợ thực trong hệ thống. Trong thời gian dài, việc quản lý lại quá lỏng lẻo, dẫn đến tình trạng không nhận diện nổi những chủ sở hữu thực sự.
Cuối cùng, việc “đẻ” thêm công ty mua bán nợ như thế này chẳng khác gì thêm một doanh nghiệp độc quyền. Trong khi đó, đây lại là siêu công ty. Với giai đoạn tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, việc hình thành thêm một siêu tổng công ty mang tính độc quyền như vậy liệu có là điều cần thiết?
(Theo Vneconomy)