Trường Giảng Võ (Giảng Võ trường) là địa điểm quan trọng ở Thăng Long xưa. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, năm 1010, nhà Lý cho lập điện Giảng Võ; năm 1070, lập Xạ đình. Tháng 8/1253, Trần Thái Tông lập Giảng Võ trường. Đây là nơi luyện tập võ thuật, giảng dạy binh pháp, thao diễn quân sự của các triều đại.
Năm 1481, nhà Lê đã cho đào hồ Hải Trì ở phía tây Thăng Long (gồm Giảng Võ, Kim Mã, Ngọc Khánh). Giữa hồ có điện Thúy Ngọc, bên cạnh dựng điện Giảng Võ để luyện tập, điểm duyệt binh mã.
![[Caption]Các nhà khảo cổ tham gia khai quật cổ vật dưới lòng hồ Ngọc Khánh năm 1983. Ảnh: Bảo tàng Hà Nội](https://vcdn1-vnexpress.vnecdn.net/2023/02/11/aa-JPG-4872-1676129645.jpg?w=680&h=0&q=100&dpr=1&fit=crop&s=7rrUPBr7RRjdxYwZqcfIIA)
Các nhà khảo cổ tham gia khai quật cổ vật dưới lòng hồ Ngọc Khánh năm 1983. Ảnh: Bảo tàng Hà Nội
Đến những năm 1960 của thế kỷ trước, việc nghiên cứu di tích trường Giảng Võ bắt đầu được tiến hành, sau khi một vài vũ khí cổ được tìm thấy tại Trường Trung cấp Giao thông Cầu Giấy, nay là Đại học Giao thông Vận tải.
Việc nghiên cứu có bước ngoặt lớn khi tháng 3/1983 chính quyền Hà Nội cho thi công mở rộng hồ Ngọc Khánh, quận Ba Đình. Đào sâu xuống lòng đất, công nhân phát hiện nhiều vũ khí, đồ gốm, sành cùng vật liệu kiến trúc bằng gỗ, đất nung.
Các nhà khảo cổ sau đó tổ chức khai quật, tìm thêm hàng nghìn hiện vật. Năm 1984, hai hội nghị khoa học do Sở Văn hóa tổ chức với những báo cáo nghiên cứu sâu rộng khẳng định khu vực hồ Ngọc Khánh là trường Giảng Võ thời Lê. Các hiện vật sau đó được bàn giao cho Bảo tàng Hà Nội lưu giữ, bảo quản.

Nhiều vũ khí được tìm thấy trong quá trình mở rộng hồ Ngọc Khánh hiện được bảo quản tại Bảo tàng Hà Nội. Ảnh: Phạm Chiểu
Theo Bảo tàng Hà Nội, bộ sưu tập vũ khí trường Giảng Võ gồm 111 hiện vật, thuộc 13 nhóm, được phân loại theo chức năng sử dụng, gồm: Bạch khí (giáo một ngạnh, mũi trường, câu liêm, đinh ba, kiếm và qua chỉ) và hỏa khí (súng lệnh và đạn), trong đó bạch khí chiếm 83%. Trong bạch khí, chủ yếu là loại đánh gần và xa, vũ khí phòng ngự chỉ chiếm 1,8%.
Trang bị bạch khí cho quân đội phát triển nhất vào thời Lê Sơ - Mạc - Lê Trung Hưng, thế kỷ 15-18. Đến giữa thế kỷ 19, theo hội điển của triều Nguyễn, phần lớn binh lính triều đình ra trận còn mang bạch khí. Quân đội Tây Sơn đã có pháo và một số loại hỏa khí nhưng về cơ bản vẫn là bạch khí.
Đa số vũ khí được làm từ sắt, riêng súng lệnh được đúc bằng hợp kim đồng và đạn bằng đá. Chúng chủ yếu được chế tạo bằng phương pháp rèn đập thủ công nên không trùng lặp với bất cứ bộ sưu tập vũ khí nào ở Việt Nam đến nay.
Tại lòng hồ Ngọc Khánh, các nhà khảo cổ còn phát hiện dấu tích lò bễ, cục xỉ sắt và một số đồ đang chế tạo dở dang, cho thấy vũ khí được sản xuất tại chỗ. Khi mới phát hiện, hầu hết vũ khí có cán tre hoặc gỗ, nay cán đã hư hỏng.

Loạt bạch khí được tìm thấy với chất liệu bằng sắt. Ảnh: Phạm Chiểu
Cố GS.TS Đỗ Văn Ninh, người từng trực tiếp tham gia khai quật, nhận định vũ khí trường Giảng Võ là một trong những bộ di vật hiếm quý vào bậc nhất so với tất cả phát hiện dưới lòng đất Thăng Long - Đông Kinh - Hà Nội. Phần lớn vũ khí có tên trong binh chế thời Lê, được Phan Huy Chú liệt kê trong Lịch triều hiến chương loại chí. Chúng có lẽ chủ yếu phục vụ đánh đuổi quân xâm lược phương Bắc.
Nhiều nhà khảo cổ khác nhận xét bộ sưu tập vũ khí dưới lòng hồ Ngọc Khánh đa dạng về loại hình, hình dáng khỏe khoắn hơn hẳn so với các sưu tập thời Trần từng phát hiện ở chùa Bút Tháp (Hà Nội), hay sưu tập giáo tìm thấy ở phủ đệ Trần Quốc Tuấn (Kiếp Bạc, Hải Dương).
Với những giá trị trên, ngày 30/1, bộ sưu tập vũ khí trường Giảng Võ được công nhận là bảo vật quốc gia, nâng tổng số bảo vật quốc gia của Việt Nam lên 265.
Việt An