"Thực tế ở tuyến xã, phường không có bác sĩ chuyên khoa tâm thần, những y bác sĩ khác thì không có kiến thức về ngành này. Có thể nói, đội ngũ cán bộ làm tâm thần ở phường, xã hiện còn thiếu và 'què quặt'", phó giáo sư Trần Hữu Bình, nguyên Viện trưởng Sức khỏe tâm thần quốc gia nói tại một hội thảo mới đây về sức khỏe tâm thần.
Theo ông nguyên nhân một phần vì nhiều người còn kỳ thị, không thích lĩnh vực này, bởi nhắc đến tâm thần là nghĩ đến điên, không bình thường nên họ không thích được tiếng là bác sĩ tâm thần.
Ông La Đức Cương, Giám đốc Bệnh viện Tâm thần Trung ương (Hà Nội) thì cho rằng chính sách thu hút đối với cán bộ chuyên khoa tâm thần còn thấp. Thu nhập thấp lại phải làm việc vất vả nên việc tuyển dụng bác sĩ vào các cơ sở khám chữa bệnh chuyên khoa tâm thần hàng năm là rất khó khăn, đặc biệt là ở tuyến tỉnh.
![]() |
|
Việt Nam khan hiếm bác sĩ chuyên ngành tâm thần. Ảnh: Hà Khoa. |
"Mục tiêu Việt Nam nâng số bác sĩ tâm thần trên 100.000 dân lên là 2, như vậy còn thiếu 800. Tính ra một năm đào tạo được 100, như vậy phải cần 8 năm cộng với 6 năm đào tạo trong trường, ít nhất 14 năm nữa mới đạt được tỷ lệ này. Chưa kể có cán bộ nghỉ hưu, nếu không có đề án đào tạo riêng thì chắc lâu mới thực hiện được", ông Cương nói.
Bên cạnh đó, tâm thần lại là bệnh mãn tính, kéo dài; vì thế hiệu quả điều trị, kinh tế và xã hội chưa nhìn thấy ngay. Đây cũng không phải là bệnh gây bùng phát cấp tính nguy hiểm như các bệnh truyền nhiễm khác. Vì vậy sự quan tâm của xã hội chưa được đúng mức.
Những hiểu biết của cộng đồng xã hội về bệnh tâm thần dù đã cải thiện nhưng vẫn còn ít. Mọi người không hiểu rằng bệnh tâm thần không bao giờ điều trị khỏi, bệnh bộc lộ ở các giai đoạn khác nhau. Nhiều gia đình có người bệnh tâm thần thậm chí không có những kiến thức cơ bản như dấu hiệu bệnh, dấu hiệu tái phát, cách sử dụng thuốc cho người bệnh…
"Bệnh trầm cảm điển hình thì dễ phát hiện: khóc lóc sướt mướt, buồn rầu, ủ rũ... Nhưng với trường hợp không điển hình thì khó, chủ yếu các triệu chứng của cơ thể. Nhiều người bị nhẹ, thậm chí không chấp nhận mình bị bệnh nên từ chối điều trị", ông Cương cho biết.
Trong khi đó, trầm cảm là nguyên nhân hàng đầu gây tự sát, có thể xảy ra ở bất kỳ mức độ trầm cảm nào. Nếu bệnh nhân trầm cảm được phát hiện sớm và điều trị đúng phương pháp thì bệnh có thể khỏi hoàn toàn, không để lại di chứng.
Cũng theo ông Cương, hạn chế trong việc điều trị bệnh nhân tâm thần là nhiều bác sĩ coi nặng tác dụng của thuốc, coi nhẹ liệu pháp tâm lý điều trị như: kịch, vẽ, nhạc, thể dục... Trong khi những liệu pháp này đóng góp một nửa, thậm chí cao hơn trong việc điều trị bệnh thành công.
Tâm thần là do rối loạn các chức năng hoạt động của não gây nên. Công tác bảo vệ sức khỏe tâm thần không đơn thuần chỉ là chữa bệnh, mà còn là phòng, phát hiện sớm, can thiệp sớm các rối loạn tâm thần tại cộng đồng. Can thiệp đi đối với phục hồi chức năng tâm lý xã hội giúp người bệnh nhanh chóng hòa nhập với cộng đồng và xã hội, làm giảm tỷ lệ mãn tính, tàn phế và giảm tỷ lệ gây rối, gây nguy hại mà những bệnh loạn thần nặng có thể gây ra.
|
1o% bệnh nhân tâm thần điều trị tại các bệnh viện là những người bị tâm thần phân liệt hoặc trầm cảm thể nặng. Tuy nhiên gánh nặng rối nhiễu tâm trí ở mức phổ biến, trên mọi đối tượng, nhất là phụ nữ có thai và nuôi con nhỏ. Kết quả điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam năm 2008 cũng cho thấy, trong hơn 10.000 thanh thiếu niên thì trên 73% người từng có cảm giác buồn chán, hơn 4% từng nghĩ đến chuyện tử tự. So với số liệu cuộc điều tra trước đó vào năm 2003, các chuyên gia nhận thấy tỷ lệ thanh thiếu niên trải qua cảm giác buồn chán đã tăng lên. Đặc biệt, tỷ lệ nghĩ đến chuyện tự tử tăng lên khoảng 30%. |
Phương Trang
