Tại Việt Nam, việc gửi tiền tiết kiệm qua hệ thống ngân hàng được coi là một kênh đầu tư an toàn, được nhiều tầng lớp dân cư ưu tiên. Dân số Việt Nam hiện nay là 99,2 triệu người, thu nhập của người dân cũng không ngừng cải thiện. Dữ liệu của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) cho biết, GDP bình quân đầu người của Việt Nam trong năm 2021 đạt khoảng 3.743 USD (gấp đôi năm 2011), quy mô tiền gửi của người dân ngày một lớn hơn. Theo cập nhật mới nhất của Ngân hàng Nhà nước vào cuối tháng 6 vừa qua, lượng tiền gửi của dân cư tại các tổ chức tín dụng đạt gần 5,62 triệu tỷ đồng. Nếu so với thời điểm cách đây 10 năm thì GDP bình quân đầu người cao gấp hơn hai lần, lượng tiền gửi bình quân đầu người cao gấp 3,9 lần.
Sự tăng trưởng nói trên đến từ sự không ngừng sáng tạo và đổi mới của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Các hình thức huy động tiết kiệm ngày càng đa dạng và tiện ích phù hợp với nhu cầu của người dân, từ hình thức thông thường (không kỳ hạn, có kỳ hạn) đến các khuyến mại, gia tăng lợi ích cho khách hàng như: tiết kiệm dành cho trẻ em, cá nhân tích lũy trong tương lai, hưu trí... Đặc biệt, ngành ngân hàng đã chủ động, tích cực hội nhập, tham gia vào cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, triển khai thực hiện kế hoạch chuyển đổi số, nhờ vậy khách hàng có thể gửi tiết kiệm online thông qua Internet banking, mobile banking thay vì giao dịch trực tiếp tại ngân hàng.
Việc tạo lập hành lang pháp lý an toàn cho nguồn tiền gửi tiết kiệm cũng luôn là quan tâm hàng đầu của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước. Luật pháp quy định việc tham gia bảo hiểm tiền gửi là bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng có huy động tiền gửi và các tổ chức này nộp phí bảo hiểm tiền gửi ở mức 0,15% số dư bình quân tiền gửi. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam bảo vệ người gửi tiền thông qua các hoạt động nghiệp vụ kiểm tra, giám sát... Bên cạnh đó, khi tổ chức tín dụng mất khả năng chi trả hoặc phá sản, mỗi người gửi tiền tại tổ chức tín dụng đó được bảo hiểm với hạn mức theo quy định.
Theo quy định tại Điều 18 Luật Bảo hiểm tiền gửi 2012, tiền gửi được bảo hiểm là tiền gửi bằng đồng Việt Nam của cá nhân gửi tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi dưới nhiều hình thức khác nhau như có kỳ hạn, không kỳ hạn, tiết kiệm, chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức khác theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng. Thể chế này cho thấy chính sách bảo hiểm tiền gửi đáp ứng và có khả năng bảo vệ toàn bộ đối với đại đa số người gửi tiền tại các tổ chức tín dụng.
Đặc biệt, tiền gửi không kỳ hạn - hình thức thông dụng và được sử dụng nhiều nhất hiện nay cũng được bảo hiểm tiền gửi. Theo đó, người gửi tiền không nhất thiết phải lập sổ tiết kiệm mà việc sử dụng thẻ thanh toán của ngân hàng hay tài khoản ngân hàng thông thường cũng chính là dạng gửi tiền không kỳ hạn, loại hình này không giới hạn thời gian gửi cũng như số dư trong tài khoản.
Hiện nay, phần lớn các cơ quan, đơn vị đều mở tài khoản ngân hàng cho cán bộ, nhân viên, người lao động của mình để thực hiện trả lương qua tài khoản. Đây vừa là phương thức hiện đại, thuận tiện cho người lao động, vừa là một hình thức phúc lợi của doanh nghiệp, giúp tiền lương của người lao động được bảo vệ bởi chính sách bảo hiểm tiền gửi. Đến nay, tỷ lệ người dân trưởng thành có tài khoản ngân hàng tại nước ta là 66%, tốc độ tăng trưởng bình quân hơn 11% từ năm 2015-2021. Đồng nghĩa vai trò và trách nhiệm của tổ chức bảo hiểm tiền gửi đối với tiền gửi của người dân đang ngày một tăng cao.
Bên cạnh các hình thức gửi tiền thông thường, những năm qua, tại Việt Nam đã xuất hiện hàng loạt các công ty công nghệ tài chính, tạo ra một phương thức thanh toán dần trở nên phổ biến là ví điện tử... Tuy nhiên, theo Luật bảo hiểm tiền gửi, tiền gửi đã chuyển từ tài khoản ngân hàng vào ví điện tử để sử dụng cho giao dịch không phải là tiền được bảo hiểm. Khoản 3 Điều 4 Luật Bảo hiểm tiền gửi cũng quy định, "tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi là tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thành lập và hoạt động theo Luật Các tổ chức tín dụng được nhận tiền gửi của cá nhân". Do đó, các công ty công nghệ tài chính không phải là tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi.
Đại diện Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam cho biết, luật bảo hiểm tiền gửi và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật chưa quy định rõ về "các hình thức tiền gửi khác", dẫn đến có các quan điểm khác nhau trong việc xác định tiền gửi được bảo hiểm đối với các hình thức như: tiền gửi ký quỹ, thẻ trả trước... Vì vậy, để phát huy tốt hơn nữa vai trò bảo vệ người gửi tiền, hệ thống văn bản pháp lý về bảo hiểm tiền gửi tại Việt Nam cần tiếp tục được hoàn thiện, sửa đổi. Cụ thể, cần nghiên cứu xem xét bổ sung tiền ký quỹ, tiền gửi trong thẻ trả trước, tiền trong tài khoản ví điện tử (có thể giới hạn đối tượng chủ tài khoản) được bảo hiểm tiền gửi để thích ứng với bối cảnh tài chính và xu hướng tiêu dùng mới của người dân.
Minh Huy