Phan Huy Đường -
Đời người là một quá trình liên tục từ sinh tới tử. Trong quá trình ấy, tư duy của con người lúc tiến, lúc chựng lại, lúc lùi. Có lúc nhẩy vọt lên phía trước, có lúc nhẩy vụt về... khởi điểm. Cắt một cuộc đời thành nhiều giai đoạn có vẻ giả tạo, hình thức, nhất là đối với Sartre, người có thói quen làm cùng lúc nhiều chuyện: viết triết, viết văn, tranh luận, bút chiến, giới thiệu nhà văn trẻ, dấn thân chính trị... Lại có thói đột ngột bỏ chuyện này làm chuyện khác, rồi trở lại hoàn thành chuyện bị bỏ rơi... 10 năm sau. Tuy vậy, chính Sartre đã làm chuyện đó đối với đời mình. Ta có thể dựa vào đó để tìm hiểu. Cuộc đời ấy có ba giai đoạn:
- trước chiến tranh thế giới 2.
- từ chiến tranh thế giới 2 tới 1968, khi xã hội Pháp bùng nổ.
- từ 1968 tới chết, năm 1980.
Giai đoạn 1, tới 1945
Sartre là một tác giả hiếm hoi vừa làm chủ tư tưởng của mình vừa làm chủ ngòi bút hành văn của mình, không bao giờ cho phép triết lý và văn chương chia lìa nhau. Cho tới nay, chưa ai phát hiện được mâu thuẫn nào giữa triết lý, văn chương, hành động, cuộc sống của chàng. Phê phán Sartre khó ở đó. Người ta trách chàng đã từng lựa chọn sai, như "lịch sử đã chứng minh". Từ đó kết luận: phương pháp suy luận của chàng sai. Cứ cho là vậy. Nhưng phương pháp suy luận ấy sai ở chỗ nào về mặt lôgíc? Tại sao phương pháp suy luận sai ấy khiến chàng thường thường lựa chọn đúng và sáng tác lắm tác phẩm văn chương hay như vậy? Chẳng mấy ai nói được điều gì đáng kể, thường chỉ phán và đem... lịch sử (sic) ra nện. Chẳng thuyết phục tí nào. Cuối cùng, ý kiến thời thượng hiện nay: Sartre là một nhà văn lớn, một triết gia tồi; ca ngợi văn chương của chàng và lờ triết lý của chàng. Nhưng lờ thế quái nào được: vứt bỏ nội dung triết lý, chẳng còn điều gì hiểu được! Nhưng độc giả ngày nay đọc vẫn hiểu điều chàng muốn nói, dĩ nhiên ở những mức độ khác nhau. L’enfer, c’est les autres (Địa ngục, chính là tha nhân) hiểu theo kiểu thông thường vẫn hay. Và không mâu thuẫn với l’Être-pour-Autrui (Thực-thể-do-Tha-nhân) trong triết lý của L’Être et le Néant. Sống với chàng (nàng), có lúc tôi có cảm tưởng tôi chỉ còn là một cái bàn, cái ghế. Có mấy người đã từng nói với tôi như thế. Họ "vận dụng" triết lý của Sartre mà không biết. Do đó Sartre vẫn incontournable (không thể vòng tránh) đối với triết gia Pháp: không đụng tới thì thôi (đó là thái độ chung, lờ), đụng tới khó nhai nghiền lắm lắm. Đúng là:
Nhưng không ai chiến thắng nổi một triết lý bằng cách tuyên bố đơn thuần rằng nó sai. Phải hiểu nó và vượt nó, trong nghĩa dựa vào nó mà tiến lên đúng theo lôgíc nội tại của nó, vận dụng khả năng phê phán của con người để gạt bỏ khía cạnh hình thức của nó [nói toẹt là ngôn ngữ thời thượng cũng được] nhưng vẫn giữ lại nội dung mới mà nó đã đạt được[21].
Thuở còn thơ, Sartre mơ trở thành nhà văn lớn. Vào École Normale Supérieure (Trường Cao Đẳng Sư Phạm), chàng mơ thêm trở thành triết gia lớn. Trưởng thành trong thời đại cách mạng, chàng đã mong giải quyết mâu thuẫn giữa triết lý (dựa vào suy luận cá nhân) và hành động (cùng người khác thay đổi thế giới), đem triết lý vào đời thực. Do đó chàng phải đương đầu với triết lý của Marx vì, trong thế kỷ 20, nếu có một triết lý đã thực sự biến thành môi trường cảm nhận và tư duy của đông đảo quần chúng, đó là triết lý của Marx, mọi triết gia đều phải đối diện với nó để khẳng định mình. Do đó chàng tạo những khái niệm liberté en situation (tự do trong hoàn cảnh), intellectuel engagé (trí thức dấn thân), littérature engagée (văn chương nhập cuộc), v. v...
Từ ấy, chàng đeo đuổi cả hai hoài bão, thường là song song, nhưng cũng có lúc nhẩy từ lĩnh vực này qua lĩnh vực kia, tư tưởng luôn luôn thống nhất, văn chương nêu vấn đề cho triết lý, triết lý làm nền tảng cho văn chương, rồi văn chương hiện sinh hóa[22] triết lý qua tác phẩm nghệ thuật và... giải quyết những bế tắc triết học!
Tác phẩm đầu tiên thể hiện những khái niệm triết đặc thù của Sartre là La Nausée (Buồn nôn). Chàng nộp bản thảo cho Gallimard năm 1936 dưới tựa Melancholia. Và... bị từ chối. Tội nghiệp Sartre. Hỏi vợ, bị khước từ. Thi agrégation triết lần đầu, trượt. Gửi đăng tiểu thuyết đầu tay mình đã viết hết mình[23], bị từ chối. Cũng dễ hiểu: chẳng ai hiểu nội dung triết của tiểu thuyết này. Người sành nhất cũng chỉ thấy chưa có tiểu thuyết nào đen tối đến thế ngoài tác phẩm của Kafka. Sau khi chàng đăng L’Être et le Néant, thiên hạ mới lần lần hiểu. Năm 1937, do bè bạn cổ động, Gallimard nhận đăng tiểu thuyết ấy và đề nghị tựa La Nausée.
Tư tưởng của Sartre bước vào đời dưới dạng văn chương. Trong La Nausée, nhân vật chính, Roquetin, lần lần ý thức con người là một hiện thực[24] ngẫu nhiên (contingent), không nhất thiết, không có lý do tồn tại. Điều ấy, Sartre cảm nhận từ tuổi 20. Chàng không dùng từ hasard, cũng có nghĩa đó, có lẽ vì nó là khái niệm gắn với khái niệm tất yếu (nécessité) trong những tranh luận khoa học và triết học kinh điển. Dĩ nhiên, khái niệm contingence cũng có nghĩa đó, nhưng nó còn có nghĩa này: con người không có ý nghĩa (sens), giá trị (valeur) gì cả. Nếu nó là sản phẩm cần thiết trong quá trình vận động của vũ trụ (như Engels tưởng) hay là một sản phẩm đặc biệt của Thượng Đế, đời nó có ý nghĩa, giá trị. Ý nghĩa, giá trị đó tùy khoa học hay một đấng thiêng liêng. Nhưng nếu nó ngẫu nhiên, nó không tự nó có ý nghĩa, có giá trị. Để trốn tránh sự thật khiếp đảm đó, Roquetin tự dối mình, lao vào đủ thứ ứng xử không trung thực (conduite inauthentique), thí dụ, Tình Yêu với những khoảng khắc độc nhất (moments uniques) của nó. Cuối cùng, chàng hiểu: không thể giả dối với chính mình. Tiểu thuyết kết thúc với hình ảnh một Roquetin nghe một khúc nhạc, đột nhiên hiểu rằng nghệ thuật là điều tất yếu duy nhất của con người. Trong một điệp khúc, những nốt nhạc nối đuôi nhau một cách tất yếu, nốt trước đã thế, nốt sau phải vậy. Sự tất yếu ấy do con người tạo ra để thể hiện chính mình. Ý nghĩa và giá trị của con người do chính nó sáng tạo. Nội dung triết lý cơ bản ở đây: một cuộc đối diện cô đơn giữa ý thức cá nhân với thân phận làm người. Lối thóat khơi ra để mang lại cho thân phận ấy ý nghĩa và giá trị là làm nghệ thuật. Hoàn toàn không có kích thước xã hội, lịch sử, chính trị. Nhưng thái độ đối diện thân phận làm người ấy đặt đầy vấn đề cho những kiểu suy luận lệ thuộc xã hội, lịch sử và chính trị! Những thái độ cực đoan thường vậy, và Sartre cực đoan trong mọi vấn đề. Đã viết triết, phải đặt lại vấn đề từ đầu: con người, ý thức là gì? Đã tìm hiểu người khác, phải tìm hiểu tận gốc và toàn diện; đã muốn sống trung thực, phải sống trong suốt với chính mình, với người khác, với đời, tới cùng và suốt đời; đã dấn thân chính trị chống chủ nghĩa tư bản, phải ủng hộ những khuynh hướng cực tả; đã yêu, phải yêu toàn diện và, do đó, chỉ yêu Simone de Beauvoir là chính. Hè hè, triết gia... Thái độ ấy đá phóc ta ra khỏi những định kiến êm ả, hèn hạ, bắt ta đương đầu với vài điều ta đã linh cảm nhưng không dám đối mặt, bắt ta thực sự làm người.
Sau La Nausée, trước hoặc song song với L’Être et le Néant hoặc ngay sau đó, những tác phẩm văn chương chính, tiêu biểu, gồm tuyển tập truyện ngắn Le Mur, Bức Tường, tiểu thuyết L’Âge de Raison, Tuổi trưởng thành, kịch Les Mouches, Bầy ruồi, tiểu thuyết Le Sursis, Thời hạn hoãn, những vở kịch Huis Clos, Xử kín; Morts sans sépulture, Chết không đất chôn và La putain respectueuse, Con đĩ kính cẩn. Và bài nói chuyện lừng danh: L’existentialisme est un humanisme, Chủ nghĩa hiện sinh là một chủ nghĩa nhân bản.
Nội dung triết lý của các tác phẩm trên đều có thể hiểu qua L’Être et le Néant. Sartre bắt đầu ghi những suy nghĩ của mình để viết quyển sách triết gốc này năm 1939, khi chàng bị bắt lính, bước vào lịch sử thực của thời đại của chàng. Về quá trình đó, chàng nói:
Mùa xuân 1939 đánh dấu một bước ngoặt trong đời tôi. Tôi từ giã chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa phi nhân bản của tôi. Tôi học được sự đoàn kết. [...] Năm 1939, cuộc đời tôi thay đổi đột ngột, triệt để: Lịch sử đã tóm cổ tôi để không bao giờ buông tôi nữa[25].
Chàng chỉ bắt đầu hiểu điều đó năm 1945, hai năm sau khi công bố L’Être et le Néant:
Chính trị là một kích thước của con người. Nhưng điều ấy, tôi chỉ phát hiện ra cho chính tôi qua chiến tranh, và tôi chỉ thực sự hiểu nó từ năm 1945[26].
Chàng nói:
Nếu tôi đã viết quyển Thực-thể và Hư-vô nhanh như thế thì vì chỉ cần viết thôi: những ý tưởng đã có sẵn[27].
Những ý tưởng có sẵn đó, tất nhiên đã thể hiện trong những tác phẩm văn chương đã đăng hoặc đang hình thành song song với L’Être et le Néant và ngay sau đó. Tất nhiên, L’Être et le Néant và những tác phẩm hình thành song song cũng có những ý tưởng xuất phát từ bước ngoặt kia, từ sự đương đầu bất ngờ giữa Sartre với Lịch Sử. Những điều ấy thể hiện lần đầu tiên dưới dạng nào, ở tác phẩm nào, là đề tài nghiên cứu lý thú không bàn ở đây được.
Về mặt triết lý, nội dung chung của những tác phẩm kể trên được lý thuyết hóa trong L’Être et le Néant. Ta hãy thử tìm hiểu, theo Sartre[28], nó thế nào.
L’Être et le Néant là một quyển sách đồ sộ, khổ lớn, chữ nhỏ, dài hơn 700 trang, rất khó hiểu, đọc vài trang đã chóng mặt, đổ mồ hôi.
Lý do thứ nhất: ai không quen phương pháp suy luận biện chứng của Hegel, khó mà hiểu được. Thời ấy, ở Pháp ít ai biết đến Hegel. Một vài trí thức Pháp biết Hegel qua những bài giảng của Alexandre Kojève (1933-1939) tại École des Hautes Études[29]. Tới giữa những năm 70, Pháp mới bắt đầu xuất bản Hegel toàn tập.
Lý do thứ hai: Sartre vận dụng một văn phong cực kỳ lạ, rất thích hợp với kiểu suy luận biện chứng. Trong kiểu suy luận ấy, không có gì tĩnh cả, mọi sự đều động. Không những thế, mọi sự đều tự nó vận động. Để thể hiện điều đó, Sartre lôi cổ tiếng Pháp ra khỏi khung duy lý hình thức của nó, vặn vẹo nó, liên miên khích động[30] danh từ, tạo nhiều động từ mới. Kết quả, đầy những câu kiểu: Le présent n’est pas, il se présentifie. Hiện tại không là, nó tự hiện tại hóa. Le soi n’est pas, il est été. Cái tôi không là, nó đã bị là. Se présentifier và est été không có trong tiếng Pháp! Đọc liền tù tì 10 trang văn kiểu ấy, độc giả khép sách đi ngủ, khá tự nhiên. Tuy vậy, chịu khó tạm quên mình một tí, đọc ngấm đòn, cũng quen thôi, có thể hiểu rõ ý vì Sartre viết chính xác, chặt chẽ, nội dung nhất quán và, như Jeanson đã làm, trình bầy lại một cách dễ hiểu hơn.
Lý do thứ ba: khái niệm être là khái niệm cơ bản trong triết học Tây Âu, mỗi triết gia có định nghĩa riêng về nó. Từ être trong tiếng Pháp vừa là danh từ vừa là một động từ cơ bản, khó lòng viết một trang mà không dùng nó nhiều lần. Cả hai có vô số nghĩa. Do sự nhập nhằng đó, quyển sách rất khó hiểu. Trong một câu văn, có thể có nhiều từ être với nghĩa khác nhau, phải dịch bằng những từ ngữ khác nhau mới hiểu được.
Vì thế, dịch hay trình bầy triết lý của Sartre trong một ngôn ngữ khác hẳn tiếng Pháp rất khó.
Sau đây, tôi xin thử trình bầy lại trong tiếng Ziao Chỉ lõi đặc thù của L’Être et le Néant, vài khái niệm chính được định nghĩa trong đó và nhận diện hình thái văn chương của chúng trong tác phẩm của Sartre. Xin lỗi trước độc giả, nếu tôi thất bại.
Để hiểu vấn đề được bàn ở đây, phải đặt triết lý của Sartre trong bối cảnh triết học Châu Âu, bắt đầu từ Descartes cho đỡ phải lần mò tới những triết gia Hy Lạp cổ. Trong bối cảnh ấy, có ba câu hỏi lớn:
- Thực-thể (L’Être) có thực hay không có thực. Nếu có, bản chất của nó là gì?
- Tinh-thần có thực hay không có thực. Nếu có, bản chất của nó là gì?
- Tinh-thần có thể hiểu thực-thể hay không? Vì sao?
Trả lời của Descartes [31]
Đa số triết gia Tây Âu coi Descartes như người mở đường cho tư duy triết học hiện đại. Descartes[32] khẳng định:
- Thế giới ngoài Tôi có thực.
- Tôi có thực (Je pense donc je suis).
Trong triết lý ấy, Tôi là chủ thể tự do của tư duy[33], gốc của toàn bộ những khái niệm liên quan tới khả năng ý thức và suy luận: tinh thần, esprit, hay linh hồn, âme (đối với Descartes đồng nghĩa); ý thức, conscience; lý trí, intelligence; hiểu biết, comprendre, v.v.
Nếu ta trình bầy lại nội dung của Méditations (Suy ngẫm) với ngôn ngữ ngày nay thì trong thế giới quan và nhân sinh quan của mình, Descartes phân biệt:
- Thế giới vật chất (corps) tự tại, bất diệt, độc lập với những gì ta có thể nghĩ về nó.
- Thế giới sinh vật (corps humain), có nhục cảm (sensations, sens...).
- Thế giới tinh thần, hoàn toàn độc lập với thế giới vật chất, khác nhau về chất (substances différentes)
Tinh thần có thể hiểu thế giới vật chất nếu biết suy luận một cách có phương pháp (Discours de la Méthode, Bàn về phương pháp suy luận)
Descartes không nói tính đặc thù của substance des corps ([bản] chất của vật thể) là gì. Nhưng ông là một nhà vật lý có tầm cỡ thời ông và tác phẩm của ông cũng cho phép ta hiểu: tính vật chất (matérialité). Vì thế Engels đề cao Descartes như một triết gia duy vật. Ngày nay, ta có thể nói: là năng lượng, tuy khái niệm năng lượng cũng không dễ hiểu! Khái niệm vật chất (matière) cũng vậy nốt!
Descartes cũng không nói tính đặc thù của substance de l’esprit ([bản] chất của tinh thần) là gì. Nhưng ít nhất và rất rõ, có ý này: phi vật chất. Nó thuộc lĩnh vực khác, liên hệ tới Thượng Đế.
Ở đây, tôi không bàn tới thế giới sinh vật trong tư duy của Descartes. Bản thân Descartes đã mô tả sinh vật như những cỗ máy phức tạp. Nhưng trong tác phẩm triết của ông, có nhiều nhận xét hết sức độc đáo vẫn còn rất thời sự ngay sau khi đọc những quyển sách như La logique du vivant, Lôgíc của sự sống của François Jacob (Nobel Y học) hay những bài về sinh học mới đây trong L’Université de tous les savoirs[34], Đại học của mọi kiến thức.
Nhân sinh quan của Descartes nêu một câu hỏi nan giải. Người đầu tiên phát hiện và đặt câu hỏi đó là Công chúa Élisabeth de Bohême trong thư từ với Descartes: nếu tinh thần phi vật chất, làm sao nó điều khiển được cơ thể của con người? Descartes công nhận rằng chàng không có giải đáp hợp lý[35]. Mỹ nhân khả úy! Người say sưa triết lý nên mê mấy bà! Đảm bảo triết học sẽ nồng nàn khởi sắc liền tù tì. Hè hè, triết gia...
Trong thế kỷ 20, Schrödinger (Nobel vật lý năng lượng) đặt lại vấn đề này trong ngôn ngữ vật lý lý thuyết đời nay[36]. Ông cho rằng tính khách quan (objectivité, di sản của Descartes) trong khoa học chỉ là một giả thuyết nhằm đơn giản hóa một vấn đề quá phức tạp. Nếu tin tưởng tuyệt đối giả thuyết đó, không thể giải thích khả năng hiểu biết thế giới vật chất của con người[37]. Không ai có thể biết bất cứ gì về một hệ thống vật chất đóng (système matériel fermé). Để tìm hiểu một hệ thống vật chất, ta phải tác động vào nó bằng một năng lượng, xem nó phản ứng thế nào. Tinh thần không là năng lượng, không thể tác động vào một hệ thống vật chất, do đó không thể hiểu thế giới vật chất! Vì thế Schrödinger đã đi tìm giải đáp trong triết lý của Mach[38] và trong những Veda của Ấn Độ cổ. Ông khẳng định: sẵn sàng từ bỏ tư duy duy lý hình thức với điều kiện có một kiểu tư duy nào hơn nó, tức là, tối thiểu, cho phép con người đạt những kiến thức nó đã đạt được với tư duy duy lý hình thức.
Toàn bộ những trước tác của Trần Đức Thảo, như ông đã từng viết, từ Phénoménologie et matérialisme dialectique, Hiện tượng luận và chủ nghĩa Duy vật biện chứng, cho tới khi ông chết ở Paris, cũng nhằm giải quyết câu hỏi trên.
Trả lời của Kant
Nhân sinh quan của Kant (Critique de la raison pure, Phê phán Lý trí tinh khiết) cơ bản vẫn là nhân sinh quan của Descartes: hai thế giới biệt lập, vật chất và tinh thần. Bước phát triển căn bản: tinh thần chỉ có thể biết thế giới vật chất qua những dạng mà giác quan của con người cảm nhận nó[39]. Những dạng ấy, Kant gọi là hiện tượng (phénomène). Con người không có khả năng biết Sự vật - tự nó, chỉ có khả năng biết nó xuyên qua những hiện tượng. Một đặc điểm của hiện tượng là nó có hình thái (forme). Nhưng khả năng phát hiện hình thái đòi hỏi một tiền đề: linh thức (intuition transcendentale) Không gian. Một hình thái chỉ có thể xuất hiện trên một cái phông: Không gian. Cũng với suy luận kiểu này, Kant đặt ra một linh thức khác, Thời gian và khẳng định hai linh thức ấy cần và đủ để giải thích khả năng ý thức, hiểu biết của con người trong mọi lĩnh vực[40]. Sau đó, ông bàn liên miên về 10 phạm trù cơ bản của tư duy của Aristote.
Có lẽ dịch forme bằng hình thù chính xác hơn vì trong đoạn văn bàn tới vấn đề này, Kant nói tới những gì con mắt có thể cảm nhận. Nhưng dịch bằng hình thái đúng hơn với khái niệm triết forme. Khái niệm đó ám chỉ toàn bộ khả năng cảm nhận của con người, cơ sở của khái niệm monde sensible, thế giới ta cảm nhận. Bản thân con mắt cũng thấy cùng lúc hình thù và mầu sắc! Chưa kể đến khả năng cảm nhận thế giới ngoài Tôi của những giác quan khác.
Hai điều quan trọng ở đây [ý của tôi]:
- Kant gắn liền khả năng ý thức của con người với tính sinh vật của nó!
- Khái niệm hiện tượng của Kant không ám chỉ một thuộc tính của sự vật hay một thuộc tính của tinh thần. Nó cũng không ám chỉ một "cái gì" có thực trong thế giới tự nhiên. Nó diễn đạt quan hệ giữa tinh thần với thế giới bên ngoài. Quan hệ đó bị ngôn ngữ "vật thể hóa" thành danh từ, điều khá "tự nhiên" trong tiếng Đức hay tiếng Pháp và cũng phù hợp với nhân sinh quan của Kant: đó là một quan hệ không có thời gian tính.
Còn tiếp
Phần 1
Chú thích:
[21] Ludwig Feuerbach, Engels, Éditions Sociales, Paris 1966.
[22] Kiểu nói của tôi, không phải trích Sartre. Amener à l"existence.
[23] Jean-Paul Sartre, Oeuvres romanesques, trang LI.
[24] Réalité, trong nghĩa rộng. Không chỉ có thế giới vật chất, có cả hiện tượng người, hiện tượng tư duy. Nhiều tác giả, kể cả Sartre, để cho rõ nghĩa, dùng khái niệm réalité humaine: thực thể người.
[25] La force de l"âge, Simone de Beauvoir, trang 386.
[26] Situation X, trang 176.
[27] Jean-Paul Sartre, Oeuvres romanesques, trang LVII.
[28] Không phải theo tôi đâu nhé. Hiện nay, tôi có quan điểm khác, đã trình bầy trong Penser librement. Theo L"Être et le Néant.
[29] Tái bản dưới tựa Introduction à la lecture de Hegel, Gallimard 1979. Quyển sách này rất dễ hiểu.
[30] Trong sự phát triển thông thường của ngôn ngữ, người ta thường danh từ hóa động từ, biến một quan hệ sống thành một kiến thức chết. Sartre làm ngược lại. [Ý của tôi, không phải trích Sartre]
[31] Descartes, Oeuvres, Lettres, La Pléiade, Pháp, 1953.
[32] Ở đây chỉ nêu vài nét chính liên quan tới vấn đề, không đi vào chi tiết. Đi vào chi tiết, tư tưởng của Descartes đặt ra nhiều câu hỏi thú vị, còn rất thời sự.
[33] Hegel đã từng nhận định: Descartes là người đầu tiên đặt Tôi vào trung tâm của triết lý với tư cách là chủ thể của tư duy. Sartre đề cao cống hiến của Descartes trong ý này: con người là tự do. La liberté cartésienne, Situation I.
[34] Nxb Odile Jacob, 2001.
[35] Thế mới là một nhà tư tưởng lớn: có khả năng phát hiện bế tắc trong tư tưởng của mình.
[36] L"esprit et la matière, Tinh thần và vật chất, Seuil 1958.
[37] Einstein cũng nêu ý đó: điều khó hiểu nhất là khả năng hiểu vũ trụ của con người.
[38] Lenine có tranh luận với Mach trong Matérialisme et empirio-criticisme.
[39] Ý này đã có mầm trong tác phẩm của Descartes.
[40] Khái niệm Không gian và Thời gian của Kant cở bản vẫn là khái niệm phổ cập trong văn hóa Tây Âu ngày nay. Thực tế, Kant đã khiêng quan điểm của Newton vào triết lý của mình. Kant có kiến thức vững vàng trong nhiều nghành khoa học thời ông: toán, vật lý, v.v. Những nhà vật lý hiện đại có quan điểm rất khác về Không gian -Thời gian. Trong bài Le temps, son cours et sa flèche, Université de tous les savoirs, Editions Odile Jacob, 2001, nhà vật lý Étienne Klein viết về vấn đề này như sau: Thí dụ, vật lý không tìm cách giải đáp vấn đề "bản chất" của thời gian [...] Nó tìm cách tốt nhất để biểu hiện thời gian, và đó là một vấn đề hoàn toàn khác. Thực ra, những nhà vật lý đã biến thời gian thành một khái niệm hữu dụng (concept opératoire) tuy họ không định nghĩa được nó một cách chính xác.
Quả nhiên, như Engels đã từng nhận xét, trong lĩnh vực chuyên môn của họ, những nhà khoa học luôn luôn ứng xử một cách rất biện chứng.