Sau Cách mạng tháng Tám 1945, chính quyền lấy tên các nhà cách mạng yêu nước đặt cho đơn vị hành chính từ cấp tỉnh đến phủ, huyện, xã. Tỉnh Quảng Ngãi mang tên tỉnh Lê Trung Đình, phủ Bình Sơn mang tên phủ Nguyễn Tự Tân, phủ Sơn Tịnh là Trương Quang Trọng, phủ Tư Nghĩa là Nguyễn Sụy (Thụy), đồn Lý Sơn gọi là tổng Trần Thành...
Năm 1954-1975, chính quyền Sài Gòn thay đổi danh xưng hành chính huyện thành quận, thôn đổi thành ấp, còn tên gọi vẫn giữ nguyên. Từ ngày 12/6/1958, chính quyền đồng loạt đổi tên các xã trong tỉnh.

Tỉnh Quảng Ngãi ngày nay. Ảnh: Báo Quảng Ngãi.
Tháng 9/1975, tỉnh Nghĩa Bình được hình thành trên cơ sở sáp nhập hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định. Đến tháng 7/1989, tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định được tái lập khi Trung ương tách tỉnh Nghĩa Bình. Lúc đó, tỉnh Quảng Ngãi có một thị xã và 10 huyện.
Hiện, Quảng Ngãi có 14 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm thành phố Quảng Ngãi và 13 huyện Trà Bồng, Tây Trà, Sơn Tây, Sơn Hà, Minh Long, Ba Tơ, Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Nghĩa Hành, Mộ Đức, Đức Phổ và huyện đảo Lý Sơn.
Câu 4: "Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới; Nước bao vây cách biển nửa ngày sông" là câu thơ viết về một làng biển ở Quảng Ngãi. Tác giả của câu thơ này là ai?