Và hôm nay, dù có chút ngần ngại, tôi vẫn muốn bàn về nạn phong bì trong bệnh viện - từ chính những gì mình cảm nhận trong những ngày qua.
Mẹ tôi phải nhập viện vì một tai nạn. Bà được chuyển thẳng từ Hải Dương lên một bệnh viện Trung Ương.
Vừa nhập phòng, gia đình tôi đã được các “ma cũ” rỉ tai, hướng dẫn chuyện phong bì. Nào là đi ai thế nào, hoạt động này cần đi bao nhiêu, hoạt động kia bao nhiêu. Rất chi tiết, rõ ràng như thể có barem.
Mẹ tôi - trong cơn đau - được truyền bá rằng ở đây bệnh nhân nào cũng vậy. Đồng tiền đi trước là đồng tiên khôn. Thế là bà vội giục tôi chuẩn bị phong bì, đi gặp bác sĩ để “gửi gắm”. Nhưng tôi gạt đi. Tôi nói với bà: “Để điều trị xong xuôi, mọi thứ tốt đẹp, các y bác sĩ tận tình thì mình sẽ cảm ơn. Mẹ đừng làm hư cán bộ”.
Có thể nhiều người không đồng ý với điều này, nhưng theo tôi, phong bì cho nhân viên y tế không phải là xấu. Vấn đề là chiếc phong bì ấy phải dựa trên cơ sở tự nguyện, chứ không phải bắt nguồn từ bất kỳ áp lực nào.
Nó nên là món quà mà bệnh nhân dành để tri ân những người đã chữa trị, cứu giúp mình, chứ không thể bị coi là một thủ tục bắt buộc để bệnh nhân nhận được sự chăm sóc tốt. Bởi thật ra đấy là nghĩa vụ và trách nhiệm của cán bộ y tế.
Việc sử dụng phong bì như một món quà cám ơn rõ ràng không hề mang tính tiêu cực, mà cũng phù hợp với văn hóa, đạo lý của người Việt Nam. Nhưng vấn đề nằm ở chỗ, hiện nay phong bì đang chủ yếu sử dụng như một hành vi hối lộ, như cách mẹ tôi được hướng dẫn.
Nó đang thực sự trở thành gánh nặng của người bệnh. Cùng phòng mẹ tôi có một ca bệnh đến từ một tỉnh miền Trung. Gia cảnh bác nghèo lắm. Nghèo đến mức bị thương rồi vẫn cố làm việc, hệ quả là vết thương trầm trọng như hiện tại. Để bác nhập viện, gia đình đang phải rao bán gia súc, gia cầm. Cũng như mẹ tôi, người nhà bác được hướng dẫn về “văn hóa phong bì” ở viện. Tôi nhẩm tính, với họ khoản tiền ấy có khi là cả gia tài.
Nếu được lựa chọn, rất nhiều người sẽ không đưa phong bì. Nhưng đang tồn tại một thực trạng là cộng đồng không có niềm tin vào cái tâm sáng của cán bộ y tế. Họ không yên tâm khi không đưa phong bì.
Những ngày sau đó mẹ tôi chỉ phải thay băng, mà không được cấp thuốc. Bà rất lo lắng: liệu có phải mình không chi tiền nên bị đối xử như vậy. Thậm chí, nhiều người khác trong phòng cũng hùa vào giả thiết ấy khiến mẹ tôi càng hoang mang.
Tôi thì tin rằng không có chuyện vì chiếc phong bì mà người thầy thuốc bán rẻ mình như thế. Đơn giản chỉ là mẹ tôi chưa đến giai đoạn cần dùng thuốc. Tôi trấn an bà. Đồng thời khuyên bà cứ trao đổi thẳng thắn với bác sĩ điều trị. Đơn giản vì bà có quyền như vậy.
Nhưng cũng phải sau vài hôm tôi động viên, bà mới dám hỏi. Câu trả lời của bác sĩ là yên tâm, khi nào cần dùng thuốc ắt sẽ kê đơn.
Sự hoang mang của bệnh nhân như mẹ tôi phản ánh sự bất bình đẳng về vị thế giữa bệnh nhân và cán bộ y tế ở nước ta. Lĩnh vực y tế nói riêng và dịch vụ công nói chung vẫn tồn tại tâm thế cán bộ là người ban phát dịch vụ. Còn người thụ hưởng lại có tâm lý mình là người đi xin, không dám đòi hỏi gì.
Trong khi đó, lẽ ra theo quan điểm hiện đại, bệnh nhân phải là khách hàng. Bệnh viện là bên cung cấp dịch vụ. Còn cán bộ y tế là người trực tiếp phục vụ khách hàng.Nói một cách khác, bệnh nhân chính là “thượng đế”.
Có lẽ, chính sự nhầm lẫn về vai trò này là nguyên nhân dẫn đến câu chuyện phong bì dai dẳng trong ngành y và nhiều dịch vụ công khác, đơn cử như giáo dục.
Tâm lý về vai trò “cửa dưới” trong một cuộc ban phát ấy đã hình thành trong một giai đoạn nào đó của nền kinh tế bao cấp 30 năm về trước và để lại di chứng đến tận hôm nay. Nhưng đã đến lúc nó cần chấm dứt.
Nếu mối quan hệ giữa bệnh nhân và cán bộ y tế được đưa về đúng bản chất thì chắc chắn phong bì sẽ trở thành món quà tri ân đầy ý nghĩa, tình cảm
Một cuộc khảo sát của World Bank năm ngoái chỉ ra rằng có đến 65% người dân tin rằng “quà biếu là hối lộ”. Trong khi đó, chỉ hơn 10% người được hỏi tin rằng tặng quà là nét văn hóa. Tức là nếu như một chiếc phong bì thực sự tồn tại 2 trạng thái: “văn hóa” và “hối lộ” thì chính người đưa, trong sự sốt sắng và sợ hãi của mình, đã lựa chọn trạng thái “hối lộ”.
Ngày mai mẹ tôi lên bàn mổ. Khi đặt bút viết những dòng này, tôi cũng có chút đắn đo. Liệu tuyên ngôn như thế này, kèm với khuôn mặt mình ở đây, thì liệu có sự phân biệt đối xử nào xảy ra? Nhưng tôi bỗng nhận ra rằng nghĩ kiểu đó cũng là một loại nỗi sợ vô hình, giống với nỗi sợ khiến người ta đưa hối lộ.
Tôi có quyền tin rằng bác sĩ vẫn sẽ làm đúng trách nhiệm. Và tôi, có quyền tuyên bố nói không với sự thỏa hiệp kiểu sợ sệt này.
Tất Đức