Vương Hồng Sển
Năm 1924.
Để thấy cái ngông cái gàn của kẻ nầy, xin nhắc một việc cũ nay nhớ mà còn thẹn thẹn. Quả không có cái gì mà tôi không muốn không ham. Thậm chí tiền không có, bề thế cũng không mà đèo bòng nhiều việc lếu. Ngày mồng một tháng ba d. l. 1924, tôi đi xem hát cải lương tại rạp Modern đường d’Espagne Sài-Gòn. Lá lay tôi được ngồi gần cô Ba Trà, lúc ấy đang sáng chói trong tiền, trong nhan sắc và sắm xe hơi có tài-xế phụ, để dành mở cửa.
Cô Ba ngồi một dãy ghế thượng hạng với bác-sĩ Trinh, Tòa Tỷ và Sáu Ngọ. Trớ trêu thay, bên tay mặt và sát ghế cô là ghế của kẻ nầy. Cô ngồi xem mà mùi nước hoa làm tôi ngây ngất và khi nửa chừng cô ra về, tôi hết biết trên sân khấu hát ca những gì và khi về nhà, tôi thức trắng đêm để đặt bài nầy, nay chép ra đây cho thấy cái càn rỡ của tuổi xuân hiếu sắc:
Xem cải-lương ngộ mỹ-nữ (cô Ba Trà)
Duyên kỳ ngộ gặp nàng quốc sắc,
Khách đa tình ngó mắt quên nheo!
Mới đây sao lại như bèo?
Gió de vừa sát, gặp chèo kế dang.
Tệ chi bấy! Ớ nàng mặt ngọc,
Khách cô phòng trằn trọc năm canh
Căn duyên sao có mảnh mành,
Chưa vui sum hiệp đã đành chia phui!
Nàng tháo bước, ta ngùi ngùi thảm,
Khách lui chơn, đây dám ướm lời:
"Phiền cô tiện đó ngồi chơi,
"Cho đây xem thỏa, sắc trời phải chăng?
Khen cha chả! Khuôn trăng đầy đặn,
Càng nhìn lâu càng mặn nét hồng
Còn trời, còn biển, còn sông,
Còn câu tình ái, còn lòng tương tư.
Nghĩ cũng tệ sao đi không nói?
Để lại chi mấy đọi sầu phiền.
Vật đi còn chút tình riêng,
Nàng đi nàng để cho nghiêng ngửa lòng.
Lửa đã nhúm khó trông dụt tắt
Kể từ đây bặt bặt giấc tiên
Ngày sầu mấy khắc nào yên
Đêm trông canh lụn càng điên đảo lòng!
Than ôi, đã sa dòng biển ái,
Dễ gì toan trở lại non nhơn?
Lòng thương lòng lại há sờn,
Dẫu mòn bia đá khó khờn lòng thương...
1-3-1924
Cái ngông còn chưa chịu buông tha, tiền thì trong túi vắng hoe, mà dư thừa thơ thổng. Vô sở làm, ở Trường Máy, đường Đỗ-Hữu-Vị, trọn một tuần lễ, bỏ phế hết tất cả mọi việc, rán è ạch bôi sửa đặt thêm một bài thơ bát cú mà không dám gởi, chỉ cất trong cặp cho đến ngày nay:
Mỉm miệng cười duyên đóa hải đường,
Xui lòng thi khách biết bao thương
Dịu dàng má đỏ đào ghen thắm,
Yễu điệu mình mai liễu kém nhường.
Ngọc tốt Lam – điền ai nại giá,
Hoa tươi Thượng-Uyển nực mùi hương.
Cất xong Đồng-Tước chờ tiên nữ,
Nhắn với ai kia chớ gọi thường.
Thơ rồi để đó, lo đi cưới vợ. Cô Ba Trà vụt vụt lên như diều gặp gió, lên xe xuống ngựa mấy chục năm trường. Tôi thì một rương sách một túi áo quần, để sau còn đùm đề ba cái đồ sành ưa bể.
Bỗng vài chục năm sau, gặp nhau lại nơi bàn tài-xỉu trong Chợ-Lớn, sau trận 1945. Cô đã mất phong độ năm nào, nhưng hỏi tôi, hỏi thấy nhan sắc cô nay kém hơn trước thế nào? Tôi trả lời: "Tôi chỉ biết "người đẹp" có hình chụp treo trong tủ kiếng nhà photo Khánh-Ký lúc còn đi học Chasseloup" và "đã khiến tôi thành thi-sĩ, xin lỗi, thành thợ thơ năm nọ".
Cô cười rồi thâu dụng tôi làm "bí thư" suốt mấy tháng trường, Cô thuật tiểu sử cho tôi lấy notes, vừa thấy hay hay, kế cô bán tài-liệu cho một ông bạn nhà văn (ông T.T.Q.) tôi không nói gì, nhưng xin ngưng chép chuyện tiểu-sử nhơi bã mía, chỉ giữ lại đến hôm nay hình bóng một người năm xưa từng vãi bừa bạc trăm bạc ngàn qua cửa sổ, nay không có đến một xu-ten để cạo gió và vẫn nuốt cơm đen kéo dài cái kiếp sống thừa không biết đến chừng nào?
Nhớ một đêm nằm cạnh bàn đèn với Cô Ba, khi chị Phù-Dung đến làm bạn "ấm ấm êm êm", bỗng thấy má cô trở nên hồng hào, lông nheo ướt ướt, mũi dọc dừa, răng còn tốt, tôi nhìn lâu bỗng sợ khan, may là tại gia đã có một ai rồi, không có ai đó, đem ai nầy về, ắt cái khổ còn ai hơn nữa! Năm xưa cô là đóa hoa, tôi là "về rác". Cái năm gặp ở tài-xỉu, cô đã thành "về rác", nhưng thà tôi trôi cô-ky, không muốn kết thành bè. Tuy vậy bụng vẫn tiếc, vì bất quá là bá quất, chớ chi hai về rác gặp nhau sớm, ráp lại với nhau, biết đâu chừng biển Đông sẽ áng bóng? Không chi cũng biết mùi la dame aux camélias Nam-Việt.
1926. Gánh Phước-Cương.
Năm 1926, gánh Phước-Cương lên hát rạp Sài-Gòn: kép Bảy Nhiêu làm Tống Chơn-Tôn, Cô Năm Phỉ thủ vai Bàng Quí-Phi, hay đến đỗi Chánh-Phủ gởi cả đôi sang Pháp diễn tại Paris dịp đấu xảo năm 1931, ăn khách suốt mấy tháng trường, tuy khán giả lang-sa không hiểu nổi một câu bịn rịn hay câu vọng-cổ muồi, và chỉ hiểu qua màu mè bộ tịch của đào kép.
Tôi còn giữ được một tấm chương trình gánh Phước-Cương diễn truyện Thuyết Đường, vợ Ngũ-Vân-Thiệu bị tên, Bảy Nhiêu bỏ làm Vân-Thiệu, Giả-thị do Cô Năm Phỉ đóng, hỉ nộ ai oán đủ điều (tài-liệu số 209 Hồi-ký tập II).
Giá chỗ ngồi:
Hạng nhứt ...................... 1 đồng
Hạng nhì......................... 0,60 (sáu cắc)
Hạng ba.......................... 0,30 (ba cắc bạc)
1943. Bẵng đi một khoảng dài, tôi đổi về Sa-Đéc (1928-1932) Sốc-Trăng (1932-1936) và Cần-Thơ (1936-1943), tuy vẫn xem hát như cũ nhưng không gặp chuyện nào gay cấn, cũng những tuồng cũ diễn đi diễn lại. Năm 1943 tôi đổi trở lại Sài-Gòn thì lính Nhựt-Bổn đầy đường. Đêm thứ thư 13-1-1943, tại rạp Nguyễn-Văn-Hảo, có hát Đại-Hội chư ban, theo chương trình tôi hiện có (số 210 Phụ-lục Hồi-ký tập II) đủ mặt kép đào danh tiếng:
Cô Năm Phỉ và Tám Mẹo, Năm Định gánh Nam-Phi
Bảy-Nhiêu gánh Nam Phương
Cô Thanh-Tùng gánh Thanh-Tùng
Tám Danh gánh Danh-Đàng
Cô Mười Truyền gánh Song Phụng
Cô Bảy Nam và toàn ban gánhPhước Cương
Tuồng chia làm ba lớp:
1) Vô đầu, chào Thống-chế Pétain;
2) diễn tuồng Ngọc-nữ báo phu-cừu, tuồng Tàu do hai gánh Phước-Cương và Song-Phụng đồng hợp diễn (chương-trình, Phụ-lục số 210);
3) tuồng chánh "Tứ-đổ-tường" là một tuồng ruột của gánh Phước-Cương thêm được nghệ-sĩ thượng thặng đóng lại vai cũ: phải tốt phước lắm mới dự khán được những dịp nầy: cô Năm Phỉ đóng vai người vợ hiền; Tám Danh làm anh chồng ghiền sau sa sút đến đỗi làm phu kéo xe; các vai khác chia nhau giữa các cô Tư Thanh-Tùng, Bảy Nhiêu, Tám Mẹo, Năm Định, v.v...
Giá chỗ ngồi đã tăng: 2đg, 1đg50, 1đg20, 0,70, 0,40.
1926. Nghĩa-Hiệp-Ban. Nam-Hưng-Ban.
Cái năm 1926 là năm gì mà tại Sài-Gòn, cờ bạc rần rần, nhà xéc Sáu Ngọ gần như công khai, một mình lão nầy bao-thầu hai chị em Năm và Bảy, hai cô đào danh tiếng, khi vui sắm xoàn cả bụm, khi ghen đốt áo quần sạch bách và đánh hoa biết nói bằng roi mây đến rướm máu...
Vua cờ bạc Sáu Ngọ lập gánh Nam-Hưng-Ban, để người đẹp (cô B.N.) làm bầu. Nhưng phần sòng me trong Chợ-Lớn bị chúng theo phá, tiền vô không được dồi-dào như trước, phần lỗ lã vì bao nhiêu tiền lấy ra hùn lập ngân-hàng Phan-Thiết bị chúng sang đoạt, rốt cuộc tình khô gánh rã và Sáu Ngọ cũng vào tù, khi ra mất mối cờ bạc và chết sạt nghiệp... đúng như lời thầy Tư Nên tiên đoán: bàn tay chỉ sanh-mạng đứt, bên tay vợ thì còn nguyên, thế là hai người cách mặt ly thân, chồng sẽ ngồi tù; người vợ nầy có tay cầm của, nếu ra tù không ở lại nhau thì chồng sạt nghiệp, quả thật S.N. ra tù, trách vợ ngoại tình, không ăn ở nhau nữa, N. đánh me đánh đâu thua đó mà nghề chủ chứa lấy xâu đã bị kẻ khác giựt từ lâu, nên con ma nghèo kéo đến trở tay không kịp.
Gánh Nam-Hưng-Ban chuyên diễn tuồng tàu, N. lại ghen, nên cô đào chánh cũng là bầu B.N. chỉ đóng vai xấu xí: Chung-Vô-Diệm dạ-xoa, Đào-Tam-Xuân nửa mặt thiệt nửa mặt lọ lem, kép chánh và đào chánh cấm đứng quá gần, cấm cụp lạc cấm muồi mẫn trên sân khấu.
Cũng năm 1926, gánh Nghĩa-Hiệp-Ban của ông Nguyễn-Văn-Đẩu lập ra, chương-trình tôi còn giữ (Phụ-lục số 211 tập hồi-ký II), có Nguyễn-Công-Mạnh và Nguyễn-Trọng-Quyền làm thầy tuồng.
Phần biên soạn thì vững chắc, nhưng y phục và cách trang sức kém mỹ-thuật đến gần lố lăng: kép võ đào võ mặc áo nhung cổ bẻ kiểu pyjama chung quanh viền cặp đường biên bằng lông trừu trắng toát, đầu đội khăn xếp, chơn đi giày Tàu. Thường dùng bít-tất dài nịt lên tận háng, và mặc quần đùi bắt chước cách ăn vận của phường xiệc. Anh kép chị đào nào cũng có áo choàng và tay cầm đoản đao hay trường côn. Cũng những tuồng của các gánh khác đã diễn: Anh-hùng náo tam-môn-giai, Tang-Đại giả gái, Sở Vân té lầu, Tra án Quách Hòe, Xử án Bàng Quí-Phi ..., sau rốt hát không lại các gánh lớn và rã gánh.
Còn nhiều gánh hát nữa sống chật vật, chết vô danh, nay đến tên hiệu cũng không còn nhớ...
(trích Hồi ký 50 năm mê hát - 50 năm cải lương của NXB Trẻ, tháng 4/2007).