Không lâu ngày sinh nhật tuổi 40, cuộc đời ông Ronald Hodge rẽ sang một hướng chẳng giống ai. Ronald trông vẫn phong độ ở tuổi tứ tuần, với thu nhập khá, có một người vợ hết mực yêu chiều - ít nhất trong mắt ông là vậy.
Vào một buổi sáng như bao ngày bình thường khác, vợ của Ronald nói rằng bà không còn yêu ông nữa rồi chuyển đi ngay hôm sau. Vài tuần kế tiếp, Ronald nhận tin công ty thu nhỏ quy mô, đồng nghĩa với việc ông thành người thất nghiệp, theo Wired.
Một đêm, khi đang nằm trên giường, Ronald mở cuốn Kinh thánh và bắt đầu đọc. Ông đã làm vậy kể từ khi vợ bỏ đi, mỗi lần như thế ông đều thấy một từ cứ như nhìn chằm chằm vào mình - một từ với bốn âm tiết chực nhảy khỏi trang giấy nhờ màu mực neon: Jerusalem.
Đặt chân tới Jerusalem, Ronald bảo tài xế taxi chở đến cổng Phố Cổ. Ông đi qua mê cung những con ngõ nhỏ cho tới khi tìm thấy một khách sạn rẻ, nằm gần Nhà thờ Mộ Thánh. Trong suốt vài ngày đầu ở thành phố này, Ronald dậy sớm và đến thẳng nhà thờ cầu nguyện từ sáng đến tối mịt. Ông bắt đầu nghe thấy những giọng nói của Thánh thì thầm trong đầu, thôi thúc ông tuyệt thực trong suốt 40 ngày đêm.
Khoảng một tuần từ khi Ronald nhịn ăn, các du khách trong khách sạn bắt đầu lo lắng khi quần áo của ông trở nên bẩn thỉu rồi rơi rụng dần khỏi người. Ronald quanh quẩn và rít lên những câu hát lặp đi lặp lại một từ: "Jesus... Jesus... Jesus..."
Ronald bắt đầu dựng lều ngoài sảnh khách sạn, và nói với mọi người rằng mình là đấng Messiah. Đã chứng kiến nhiều cảnh tương tự, chủ khách sạn không hề cảm thấy nguy hiểm. Ông đuổi người đàn ông Mỹ này ra đường vì lo rằng những vị khách khác sẽ sợ hãi mà bỏ đi.
Trường hợp lạ lùng này là một trong nhiều ví dụ điển hình về một hiện tượng tâm lý có tên Hội chứng Jerusalem. Hội chứng này được bác sĩ Yair Bar-El, giám đốc bệnh viện tâm thần Jerusalem, phát hiện vào năm 1982, theo BBC.
Nó tác động mạnh mẽ nhất lên những du khách nước ngoài đến với thành phố thiêng, đặc biệt là những tín đồ người Anh hay Mỹ. Theo một nghiên cứu, những người dường như hoàn toàn bình thường đến thăm thành phố, đột nhiên mắc phải chứng rối loạn tâm thần sùng đạo.
Các triệu chứng thông thường gồm: nhu cầu cảm thấy sạch sẽ và thanh khiết, mong muốn la hét những đoạn Kinh Thánh, hát thánh ca hay nỗi thúc giục bản thân đến Jerusalem. Một triệu chứng phổ biến khác là một số người có thể xé toạc những tấm ga giường trong khách sạn để mặc lên người như các nhân vật trong Kinh Thánh.
Helen Davis, đến từ phòng Công vụ Anh-Israel, nhận định: "Nó có thể là bước ngoặt cuộc đời, khiến nhiều người nghĩ họ là Chúa Jesus, Moses hay vua David. Thường họ vô hại, nhưng đôi khi có người cần chữa trị đặc biệt".
Những trường hợp được ghi nhận
Theo một nghiên cứu của tạp chí tâm thần học British Journal of Psychiatry, có tới 40 người phải nằm viện mỗi năm, vì có những biểu hiện của Hội chứng Jerusalem. Bộ Y tế Israel báo cáo 50 trường hợp du khách mắc hội chứng này mỗi năm. Các bác sĩ tâm thần của Israel cũng tin rằng, số du khách phát bệnh nhiều hơn những gì thể hiện trên giấy tờ, khoảng vài trăm trường hợp mỗi năm.
Một ca nổi tiếng là một học giả người Đức ngoài 40 tuổi, bắt đầu công cuộc khôi phục Kitô giáo nguyên thủy, sau khi ghé thăm Jerusalem. Vào ngày định mệnh của đời mình, ông đến nhà thờ Mộ Chúa tại Phố Cổ Jerusalem. Ông bắt đầu tấn công những linh mục, cáo buộc họ là những kẻ sùng bái đã phá hủy các bức tượng và tranh vẽ trong mộ Chúa.
Một trường hợp khác là du khách Mỹ đang gặp phải các vấn đề nghiêm trọng về hình thể, bắt đầu nói mình là dũng sĩ Samson (nhân vật trong Kinh thánh). Người này được chữa khỏi phần nào khi một bác sĩ tình cờ tìm thấy anh ta lang thang trên đường phố Israel, nói rằng anh đã hoàn thành sứ mệnh và có thể về nhà.
Một người bệnh từng được nghiên cứu lâu nhất là Ernest Moch, đến từ California, Mỹ. Ông tin mình là nhà tiên tri Elijah tái thế từ trong Kinh Thánh, ông nói Chúa đã gọi ông đến Jerusalem và vận mệnh đã định cuộc đời ông phải sống ở thành phố này.
Hay một tín đồ đạo Tin Lành người Nam Phi từng lập kế hoạch phá hủy điện Dome of the Rock trên Núi Đền, với hy vọng đưa Chúa trở lại.
Cơn sốt Jerusalem
Nhiều tài liệu trong quá khứ có ghi chép về hội chứng này, như nhà sử học Simon Sebag Montefiore từng miêu tả vô số trường hợp lâm vào tình trạng "thất vọng, điên rồ và hoang tưởng" khi đến thăm thành phố. Theo ông, hiện tượng này không chỉ tác động tới những người hành hương, mà cả những đế chế hay vương quốc từng tồn tại trước đây, dẫn đến sụp đổ.
Hội chứng ban đầu được định nghĩa từ những năm 1930, như một cơn cuồng loạn mang tên "cơn sốt Jerusalem" hoặc "chất độc Jerusalem". Những người mắc hội chứng này được chia thành ba nhóm chính:
Thứ nhất, những người vốn đã mắc các chứng rối loạn tâm thần, các triệu chứng nặng hơn khi tới Jerusalem, hoặc bỗng dưng cảm thấy thôi thúc phải tới thành phố này.
Thứ hai là những người mắc bệnh về thần kinh chưa được chẩn đoán, nhưng những ảo tưởng tôn giáo rõ rệt hơn khi đến Jerusalem. Như trường hợp của học giả người Đức, ông ta vẫn trở về nước làm việc như bình thường sau khi được chữa trị và cấm đến thành phố vì tội tấn công các linh mục. Ông chỉ tiếc mình không có cơ hội thuyết pháp ở miền đất Thánh.
Cuối cùng, phố biến nhất là những người không có tiền sử mắc các bệnh về thần kinh, trải qua những cơn rối loạn khi đến Jerusalem. Sau khi rời đi, họ biến mất mãi mãi. Đây cũng là những trường hợp ít được ghi lại nhất trong các tài liệu.
Chuyện gì thực sự xảy ra với các du khách?
Trong bài phỏng vấn với BBC, bác sĩ Bar El tiết lộ ông đã chữa trị cho rất nhiều bệnh nhân mắc hội chứng tâm lý này.
"Jerusalem như một thanh nam châm thu hút du khách tới đây, một số mắc các chứng bệnh thần kinh, một số khác có những niềm tin tôn giáo sâu sắc hoặc có vài trường hợp lạ lùng, chẳng giống ai. Những người hoàn toàn bình thường đến thăm thành phố như hàng triệu du khách khác, và họ dần dần mắc hội chứng Jerusalem", ông Bar El nhận định.
Ông cho rằng nhiều du khách vô thức hình thành những hình ảnh lý tưởng về các địa điểm linh thiêng ở Jerusalem. "Khi tận mắt trông thấy, họ không thể kiểm soát tâm lý. Họ phát triển những phản ứng thần kinh để tạo nên một cầu nối giữa những hình ảnh khác nhau mà họ biết về Jerusalem", bác sĩ bày tỏ.
Các nhà nghiên cứu nhận thấy hội chứng này chỉ ảnh hưởng tới các tín đồ Tin Lành và Cơ-đốc, chứ không xảy ra với các tín đồ Do Thái giáo hay Hồi giáo, và những tôn giáo khác. Có hai ngoại lệ được ghi chép, trong đó là một người đàn ông Do Thái, được nuôi dạy trở thành tín đồ Tin Lành.
Bên trong nhà thờ Mộ Chúa Jesus. Video: National Geographic.
Hiện tượng này có thể giống với những "căn bệnh" đô thị khác như Hội chứng Paris - khiến các du khách Nhật bị sốc vì kinh đô ánh sáng không lãng mạn như họ mong đợi, mà chỉ là một đô thị không hoàn hảo giữa đời thực. Một ví dụ khác là Hội chứng Stendhal hay Hội chứng Florence - do nỗi ám ảnh về thời kỳ Phục Hưng hoặc những cuộc tấn công về văn hóa gây ra.
Theo các tài liệu, từ năm 1980 tới 1993, chỉ có 42 trường hợp mắc Hội chứng Jerusalem thuộc loại thứ ba. Hầu hết người Israel cho rằng những du khách nước ngoài bị trầm cảm vì dành quá nhiều thời gian ở thành phố thiêng, trong khi họ có thể khám phá thủ đô phồn hoa Tel Aviv.