* Hoàng Nhuận Cầm đột ngột qua đời chiều 20/4 ở Hà Nội, thọ 69 tuổi. Đồng nghiệp, bạn thơ, độc giả thương tiếc ông. Nhà thơ Lê Thiếu Nhơn viết bài cảm nhận về cố thi sĩ.
Tôi không nhớ rõ lần đầu gặp Hoàng Nhuận Cầm khi nào. Chỉ nhớ cứ mỗi lần gặp, luôn thấy nguyên vẹn một thi sĩ sôi nổi với thi ca và bạn bè. Nhiều người bảo Hoàng Nhuận Cầm là tác giả đọc thơ có sức quyến rũ bậc nhất làng văn chương. Tôi cho rằng về sức lôi cuốn công chúng ở khoản tự đọc thơ mình, Hoàng Nhuận Cầm chưa bằng Nguyễn Duy, Trần Mạnh Hảo, Bùi Chí Vinh. Tuy nhiên, điều riêng biệt của Hoàng Nhuận Cầm là sự cuồng si đến mức cực đoan khi đọc và bình thơ. Ngày trước, giữa cuộc trò chuyện văn chương bên lề, anh túm áo quát tôi vì cả hai bất đồng ý kiến về một hiện tượng thơ. Qua "cơn hăng", anh lại hề hề cười. Tôi không giận anh, bởi hiểu tính nghệ sĩ của Hoàng Nhuận Cầm khi "đụng" đến thơ.
Với tôi, Hoàng Nhuận Cầm là gã trai mãi mãi tuổi đôi mươi. Sự lãng mạn và nồng nhiệt làm nên tính cách và số phận anh. Anh luôn trong trạng thái như sẵn sàng bước vào cuộc thi nào đó. Lâu lâu, anh lại cưới được vợ, và thình lình lại chia tay. Sau ba cuộc hôn nhân, gia tài của anh là bốn người con. Trải sự đời, anh vẫn giữ nét hồn nhiên, thanh thản thua thiệt.
Hoàng Nhuận Cầm từng có một thời thanh xuân rất đẹp đẽ "sáng nay - tuổi hai mươi, bùng lên như viên đạn". Năm 1971, anh tình nguyện rời giảng đường khoa Văn để vào bộ đội. Những ngày khói lửa khốc liệt, Hoàng Nhuận Cầm vác ba lô vào chiến trường Bình - Trị - Thiên thấu hiểu Buổi sáng trên chốt cam go: "Bom giặc ném vào bờ tre/ Đau cả lòng Thánh Gióng/ Da trời căng như mặt trống/ Vó ngựa về trong khao khát bao năm/ Con đã sống những ngày cao đẹp nhất/ Tuổi hai mươi chỉ có một lần".
Bàn chân anh lính hướng theo kim chỉ nam "tứ thơ nằm thăm thẳm lối Trường Sơn". Giọng điệu hào sảng của Hoàng Nhuận Cầm có lúc lẫn vào dàn đồng ca thơ chống Mỹ giục giã cho tương lai một dân tộc: "Tiếng mùa mưa hồn hậu đến bên tôi/ Tiếng thương nhớ không lời trên tóc mẹ/ Tiếng Tổ quốc trên môi như đạn xé/ Tiếng cuối cùng khẩu súng nắm trên tay". Thế nhưng, nhờ những rung động tươi xanh, sáng tác của anh không bị một màu, như câu thơ lãng mạn trong Bức tranh dọc đường hành quân: "Có rất nhiều tơ nhện trắng mung lung/ Đường anh bạn giao liên vừa đến/ Tiểu đội trưởng nhắc tên những đồn thù sẽ chiếm/ Trâu ven đồi thành tĩnh vật trong tranh... Chuồn kim ơi thân dài cánh đỏ/ Em khâu gì trên áo xám của sườn non". Ánh mắt trong trẻo giúp Hoàng Nhuận Cầm phát hiện Trên chiến hào biên giới có những chàng trai nông thôn ra trận, không phải để làm anh hùng lừng lẫy mà để cầu mong thanh bình cho bờ tre gốc ruộng quê nhà: "Có mùa lá ải nồng/ Giữa vầng trăng trong vắt/ Người lính tựa vách đất/ Hát bài ca gieo trồng".
Tuổi trẻ của Hoàng Nhuận Cầm bị ẩn khuất giữa mất mát và chia lìa. Anh nhận ra: "Câu thơ cũ có gì không thực nữa/ chớp qua hồn như pháo sáng mà thôi". Để rồi lặng lẽ day dứt cho những người ngã xuống: "Anh biết vì sao anh đã khóc/ Lá rừng sốt rét xuống trang thơ/ Đâu những căn hầm, đâu nấm mộ/ Nhắc tên lên đã thấy bơ phờ".
Hòa bình trở lại, những mộng mơ ở Hoàng Nhuận Cầm được dịp nảy nở. Tập thơ Xúc xắc mùa thu do NXB Hội Nhà Văn in năm 1992, lúc Hoàng Nhuận Cầm tròn 40 tuổi, phơi bày đầy đủ tâm hồn mỏng manh và chênh chao. Năm tháng học trò ngỡ bị mất cắp bởi chiến tranh được hồi sinh: "Ta pha mực tím yêu thương lại/ vở trắng vô cùng chưa hết trang". Hoàng Nhuận Cầm có được những câu thơ sinh động cho lứa tuổi áo trắng, từ khoảnh khắc Chiếc lá đầu tiên hoài niệm: "Em đã yêu anh, anh đã xa vời/ Cây bàng hẹn hò chìa tay vẫy mãi/ Anh nhớ quá! Mà chỉ lo ngoảnh lại/ Không thấy trên sân trường - chiếc lá buổi đầu tiên", đến Hò hẹn mãi cuối cùng em cũng đến: "Quả tim anh như căn nhà bé nhỏ/ Gió em vào - nếu chán - gió lại ra/ Hò hẹn mãi cuối cùng em đứng đó/ Dẫu mùa thu, hoa cúc cướp anh rồi".
Thơ Hoàng Nhuận Cầm vừa trọng âm vận vừa trọng nhạc tính, nên lời thường tràn qua cả ý. Anh luôn muốn dùng một bài thơ để kể một câu chuyện nên khoảng trống thẩm mỹ lẽ ra được ưu tiên có mặt giữa những câu, những đoạn, đành phải nhường chỗ cho ngôn từ cảm thán. Đúng như Hoàng Nhuận Cầm viết "nỗi khôn ngoan ám sát tuổi học trò", phần lớn những kỹ thuật thi ca như ngắt nhịp, chuyển ngữ, đổi vế nhằm lý giải hoặc nhằm tạo ấn tượng đều ít mang lại hiệu quả cho thơ anh. Khi và chỉ khi Hoàng Nhuận Cầm để trái tim mình đắm đuối đến mức cực đoan, thơ anh mới tạo dư vị: "Mai đành xa sông Thương thật thương/ Mắt nhớ một người, nước in một bóng/ Mây trôi một chiều, chim kêu một giọng/ Anh một mình - náo động - một mình anh" (Sông thương tóc dài).
Sinh ra và lớn lên trong một gia đình truyền thống nghệ thuật, có người cha là nhạc sĩ Hoàng Giác nổi danh với những ca khúc Mơ hoa, Ngày về, Lỡ cung đàn..., Hoàng Nhuận Cầm giăng mắc nhiều đam mê. Bài thơ Người đóng vai phụ của anh cũng có thể an ủi được nhiều kẻ lạc bước đa đoan: "Có vở kịch tôi cầm cờ, có vở tôi làm lính/ Có vở dài năm hồi - tôi không nói một câu/ Ngay cả mẹ cũng không thấy tôi đâu/ Đôi vở tôi nấp trong phụ trách phần tiếng động... Điều hạnh phúc khi được giao vai phụ/ Là tôi đã không phụ lại nó bao giờ". Hai vai nổi bật nhất của anh vẫn là nhà thơ và nhà biên kịch.
Nghe tin anh qua đời lặng lẽ trong căn hộ tập thể nhỏ bé ở Hà Nội, bất giác, tôi thấy lòng đắng đót mấy câu trong Mây rất thờ ơ: "Trả cho em nước mắt/ Lăn ngang ngực đàn bà/ Trả cho anh cát bụi/ Những đêm hành quân xa".
Lê Thiếu Nhơn