Phùng Dzi Thuần từ tuổi học trò đã ham mê vẽ. Khi học trường Quốc Gia Mỹ Nghệ, ông được thụ giáo các GS họa sĩ Phạm Hậu, Trần Quang Trân, nghệ nhân Đinh Văn Thành - những người thuộc thế hệ vàng trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương. Anh sinh viên Phùng Dzi Thuần bén duyên với nghệ thuật sơn mài truyền thống từ đó. Con đường đến với nghệ thuật của họa sĩ gặp nhiều khó khăn khi bị chất nhựa cây sơn đáng sợ này hành hạ. Đó là vấn nạn lở sơn cứ lặp đi lặp lại khiến ông có lúc toan bỏ học. Tuy nhiên, với động viên, hỗ trợ của thầy và gia đình, ông đã vượt qua và ngày càng ham mê với chất liệu độc đáo nhưng cũng hết sức "khó tính" này.
Năm 1955, ông thi đậu vào học trường Mỹ Thuật Việt Nam (khóa Tô Ngọc Vân). Thấm thoát đã hơn nửa thế kỷ, ông giờ là hội viên hội VHNT Hà Nội, hội viên hội Mỹ Thuật VN. Phùng Dzi Thuần vẫn miệt mài tìm tòi, thay đổi cách thể hiện và đã gặt hái những thành công, được nhiều đồng nghiệp biết đến. Có dịp gặp và trò chuyện, họa sĩ đã bày tỏ nỗi niềm trăn trở: "Sơn mài - sơn ta truyền thống - là vốn tinh hoa của dân tộc nhưng bây giờ thời kinh tế thị trường, nhịp sống gấp gáp, chúng ta đang dần đánh mất nó". Theo ông, nhiều họa sĩ giờ đây sử dụng sơn công nghiệp thay sơn ta vì vừa rẻ vừa dễ làm. Trong khi đó, một nghịch lý là những người nước ngoài lại muốn tìm hiểu, học hỏi sơn ta.
Họa sĩ Phùng Dzi Thuần cho biết nghề sơn của người Việt có lịch sử lâu đời. Qua sử sách và tương truyền, từ thời Lê trong cuốn "Bình vọng Trần thị gia phả" đã nói về ông Tổ nghề sơn. Hiện nay, tại làng Bình Vọng thuộc huyện Thường Tín (Hà Tây) người ta còn thấy đền thờ của ông và tương truyền các học trò của ông đã tản đi khắp nơi trên đất nước, tạo nên những phường thợ riêng. Mỗi phường thợ lại sáng tạo, phát triển ra nhiều kỹ thuật độc đáo và giữ thành bí quyết riêng. Ví dụ "Sơn Then Đình Bảng"; "Đồ nét và cuống ghép nứa Cát Đằng" ; "Hàng tráp quả chợ Bằng (Hà Đông)"; "Hàng chúng khảo chợ Dầu (Nam Định); "Đồ khảm làng Chuôn, làng Tre (Bối Khê, Phú Xuyên, Hà Tây); nghề dát vàng bạc Kiêu Kỵ (Gia Lâm); bột son thần Hàng Gai, Hà Nội.
Nguyên liệu chính của nghề sơn chính là sơn ta (tiếng trong giới chuyên môn thường gọi để phân biệt với nhiều loại sơn khác). Sơn ta được lấy từ nhựa cây sơn trồng chủ yếu ở vùng Trung du Bắc Bộ (Yên Bái, Phú Thọ và Nghĩa Lộ). Cây sơn có rất nhiều giống, được trồng ở nhiều địa bàn trong vùng Đông Nam Á như Trung Quốc, Nhật Bản, Campuchia, Lào, Thái Lan... Tuy nhiên, theo đánh giá của chuyên gia nước ngoài, giống cây sơn của Việt Nam là loại cho nhựa có chất lượng cao nhất.
Nhựa cây sơn ta có màu trắng ngà như sữa, là một chất lỏng quánh, có mùi chua nhẹ. Sơn ta có độ dính cao, làm keo gắn rất chắc. Sơn khô rồi rất bền, không thấm nước, không bị mối mọt, chịu được axit và nước biển, chịu nóng cao. Sơn ta tuy cứng nhưng lại có độ dẻo, đàn hồi hòa hợp với cốt gỗ. Khi bị tác động vẫn bám chắc, không bong tróc rạn vỡ. Mặt sơn dễ mài phẳng, có độ trong bóng cao khiến nó tôn màu sắc trở nên rực rỡ, sâu thẳm và bền màu. Đấy chính là những ưu việt của sơn ta. Cùng với nghề sơn truyền thống nó đã tô điểm cho cuộc sống bằng những tác phẩm phù điêu, điêu khắc, đồ chạm, sơn son thiếp vàng ở những nơi trang nghiêm như cung điện, đền đài, chùa, miếu... cho đến những vật dụng hàng ngày như hộp, tráp, cơi trầu, bàn ghế, tủ...
Năm 1930 đánh dấu một mốc quan trọng trong lịch sử nghề sơn truyền thống khi trường Cao Đẳng Mỹ thuật Đông Dương chính thức mở xưởng nghiên cứu sơn ta. Sơn ta có điều kiện ứng dụng trong hội họa. Đó là đã phát minh ra kỹ thuật mài ra hình sau khi làm những lớp màu chìm. Và thế là nghệ thuật tranh sơn mài ra đời sau những tìm tòi của các bậc tiền bối như họa sĩ Trần Văn Cẩn, Trần Quang Trân, Nguyễn Khang, Phạm Hậu, Lê Phổ, Nguyễn Gia Trí. Những tác phẩm tuyệt đẹp sử dụng chất liệu sơn mài có thể xem như bằng chứng đầu tiên khẳng định đẳng cấp hội họa đích thực của thể loại này là tác phẩm "Bờ ao" (Bình Phong 6 tấm) của Trần Quang Trân; "Phong cảnh Bắc Kỳ" của Lê Phổ.
Sơn mài sơn ta truyền thống sử dụng cùng với son thần, vỏ trai, vỏ trứng vàng bạc thật và nhiều màu, chất liệu khác tạo vẻ đẹp lung linh, huyền ảo cho các tác phẩm hội họa mà không một chất liệu nào sánh được. Nó hoàn toàn khác hẳn các dòng sơn của Nhật Bản, Trung Quốc, Lào, Thái Lan chỉ dừng lại ở các đồ thủ công, mỹ nghệ.
Họa sĩ Phùng Dzi Thuần kể liền một hơi về lĩnh vực sơn ta như tuôn từ trong máu thịt của mình với niềm tự hào nhưng cũng không giấu được vẻ tiếc nuối, lo âu. Ông nay đã ở tuổi xưa nay hiếm. Còn số người đam mê, nhiệt huyết với sơn ta như ông cũng không nhiều. Theo ông muốn bảo toàn được nghệ thuật tranh sơn ta thì phải làm cho công chúng yêu nghệ thuật phân biệt được tranh sơn ta và tranh sơn công nghiệp (sơn Nhật) như hàng thật với hàng giả. Hiểu được cái đẹp cao quý rất riêng của tranh sơn ta, họ sẽ đến với loại hình này và trân trọng thưởng thức vẻ đẹp lộng lẫy của nó.
Ngày 9/4 tới, họa sĩ Phùng Dzi Thuần sẽ tổ chức triển lãm cá nhân chuyên đề về tranh sơn ta với mong muốn trình làng trước công chúng yêu nghệ thuật vẻ đẹp đích thực của tranh sơn ta được nâng tầm hội họa. Số lượng tranh bày triển lãm lần này chỉ là một phần nhỏ trong khối lượng lớn đang trưng bày tại nhà riêng và gallery của các con ông.
Phùng Hoa Miên