Ngọc Lan -
Sau đây là câu chuyện của một số nhà văn, nhà thơ có "duyên nợ" với con giáp thứ 11 này.
Trần Đăng Khoa và Sao không về Vàng ơi
Sinh ngày 26/4/1958. Là con thứ ba trong một gia đình bần nông bên bờ sông Kinh Thầy, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Năm lên 8, Khoa đã được cả thiên hạ xưng tụng là "thần đồng thơ". 10 tuổi đã có tập thơ đầu tay Góc sân và khoảng trời.
Bài Sao không về Vàng ơi? Khoa viết năm lên 9. Hồi ấy, Khoa là một chú bé lũn cũn, nhem nhuốc, quần áo xộc xệch, nhoe nhoét mực xanh mực tím. Sau lưng Khoa là Cún Vàng. Khoa thương Cún lắm. Và Cún cũng rất quý cậu chủ nhỏ. Có Cún ríu rít bên cạnh, Khoa không ngại bóng đêm, cũng không còn sợ ma nữa. Có lần nửa đêm, mưa phùn lắc rắc, con Vàng cứ chõ mõm vào gầm giường Khoa mà sủa. Tiếng sủa gấp gáp. Mẹ Khoa giật mình: "Hay là có trộm chui vào gầm giường?". Bà luống cuống bật diêm. Hóa ra... một con rắn cạp nong to tướng. Con rắn lao vào ngách buồng. Nhưng không thoát. Con Vàng bổ theo, ngoạm luôn con rắn rồi văng, rồi quật xuống đất. Một lát sau con rắn lả đi. Cậu Vàng trở thành ân nhân của cả nhà.
Thế mà rồi, có một lần, cu cậu bỏ nhà đi. Đó là chiều ngày 3/4/1967. Giặc Mỹ ném bom cầu Phú Lương rất dữ dội. Nhà chao như đưa võng. Dứt bom thì chẳng thấy con Vàng đâu. Rồi tối cũng không thấy. Mấy ngày hôm sau nữa cũng không thấy. Cả nhà đều buồn. Em gái Khoa khóc sướt mướt. Bà chị Khoa cũng khóc. Riêng Khoa không khóc. Nhưng mà cả ngày chẳng làm được việc gì, cũng không học được. Người cứ chống chếnh. Mẹ Khoa đêm nào cũng mở cửa, chờ Cún về. Vẫn chẳng thấy bóng dáng cu cậu đâu. Đúng lúc ấy, nhà Khoa lại có khách. Một đoàn khách của Ty giáo dục Hải Dương, trong đó có bác Lê Hào - trưởng Ty. Bác Hào bảo Khoa: "Cháu làm thơ về con chó Vàng mất đi". Thế là Khoa viết. Viết rất nhanh.
Sao không về Vàng ơi?
Tao đi học về nhà
Là mày chạy xồ ra
Đầu tiên mày rối rít
Cái đuôi mừng ngoáy tít
Rồi mày lắc cái đầu
Khịt khịt mũi rung râu
Rồi mày nhún chân sau
Chân trước chồm mày bắt
Bắt tay tao rất chặt
Thế là mày tất bật
Đưa vội tao vào nhà
Dù tao đi đâu xa
Cũng nhớ mày lắm đấy...
Hôm nay tao bỗng thấy
Cái cổng rộng thế này
Vì không thấy bóng mày
Nằm chờ tao trước cửa
Không nghe tiếng mày sủa
Như những buổi trưa nào
Không thấy mày đón tao
Cái đuôi vàng ngoáy tít
Cái mũi đen khịt khịt
Mày không bắt tay tao
Tay tao buồn làm sao!
Sao không về hả chó
Nghe bom thằng Mỹ nổ
Mày bỏ chạy đi đâu
Tao chờ mày đã lâu
Cơm phần mày để cửa
Sao không về hả chó?
Tao nhớ mày lắm đó
Vàng ơi là Vàng ơi!...
(Kỷ niệm ngày mất chó 3/4/1967)
Thật ra bài thơ thoạt đầu có cái tên nôm na là Mất chó. Rồi bài thơ được đăng trên báo Văn Nghệ, đăng nguyên văn, dưới còn chua thêm một dòng, đúng như nguyên bản trong sổ bác Hào: Kỷ niệm ngày mất chó 3/4/1967, chỉ khác một chữ ở câu kết và một chút ở tên bài. Bài thơ của Khoa là Sao không về hả chó?, báo in là Sao không về Vàng ơi? Còn câu kết: Chó ơi là chó ơi!, ban biên tập đã chữa thành Vàng ơi là Vàng ơi! Thế là thành tiếng khóc rồi. Khóc bạn, dù bạn đúng là một chú chó, mà lại Chó ơi là Chó ơi! thì... tai hại quá!
Và, thật may (hay không may cho thần đồng thơ), bài thơ in được ít ngày thì con Vàng đột ngột trở về. Trần Đăng Khoa nhớ lại: "Cu cậu về vào giữa đêm, khi cả nhà không còn ai chờ đợi cậu nữa. Cậu cào cào cánh cửa và sủa gọi. Tiếng sủa eo éo như tiếng mèo hoang. Nghe rất rợn". Khoa lập cập mở cửa. Đúng là cậu Vàng thật! Cậu Vàng cọ vào chân Khoa, ngã dúi dụi. Khoa nướng cho cậu củ khoai lang. Cậu nuốt không kịp nhai, còn gừ gừ như mèo. Đêm ấy mừng quá, Khoa viết tiếp bài Chó về. Đây là bài viết hoàn toàn tự nguyện, chẳng theo yêu cầu của ai. Nhưng mà thơ... lại dở, và bây giờ thì không thể đọc lại được. Anh tặc lưỡi: "Mới hay nghề thơ thật bí hiểm, càng viết càng chẳng hiểu nó ra làm sao...".
Bây giờ thì Khoa đã già... Cún Vàng đã từ giã cõi đời. Nhưng xem ra nó còn may chán. Bởi ông chủ nó giờ đây vẫn phải còng lưng, ỳ ạch vác cây thánh giá ở lứa tuổi con nít. Nhà thơ tâm sự: "Để viết hay về chú cẩu cần phải có một tâm hồn yêu thiên nhiên và phải có độ trong trẻo... ".
Nhà văn Dạ Ngân với Con chó và vụ ly hôn
Giống trường hợp Trần Đăng Khoa, Con chó và vụ ly hôn của nhà văn miệt vườn Dạ Ngân cũng là bước ngoặt đánh dấu cột mốc văn nghiệp. Tác phẩm được viết năm 1984, in trên báo Văn Nghệ năm 1985, từng bị đặt vấn đề là "chọc ngoáy", trước cả Nguyễn Huy Thiệp.
Một chuyện tưởng hết sức vu vơ. Một đôi vợ chồng trẻ dắt nhau ra tòa chỉ vì anh chồng không chịu nổi... con chó trong nhà. Mà có phải chó Tây chó Tàu, "chó vàng chó bạc" gì cho cam"! Một con chó ta, chó quê mùa - cái giống chó nhan nhản khắp làng quê, xóm chợ, kiếm đâu chả được... ấy thế mà thành truyện, lại là truyện hay... Tại vì thiên hạ bấy nay vẫn quen (hoặc mặc nhiên) coi sự chia tay phải là kết cục của những lý do chính đáng kiểu: vợ chồng mắc chứng tâm thần, tù dài hạn, vắng mặt không tin tức, ngoại tình... Chứ chả ai lại viện ra những lý do tức cười như thế. Cũng vì tại thiên hạ bấy nay vẫn vô tình và vô cảm. Người ta không hiểu rằng một dây trầu bên cửa sổ, một nhánh trường sinh trong bình, một vài bông bất tử trên bàn, một con mèo, một con chó là sự có mặt của thiên nhiên hiền dịu, đưa con người trở về gần với cái nôi của mình. Và khám phá con vật để hiểu thêm con người, tự hào hơn và... có khi cũng phải xấu hổ với nó.
Bàn về đề tài những "chuyện vặt vãnh", những "chuyện của cảm giác trong văn chương", nhà văn Dạ Ngân cho rằng: "Viết tiểu thuyết, sử thi hay viết về một con dế thì cũng phải viết bằng tận cùng cảm xúc. Trong văn chương không có nhân vật hễ to về kích cỡ xã hội hay trọng lượng thì dễ được nhớ hơn. Trong Con chó và vụ ly hôn, tôi được nhớ như là nhà văn trẻ (lúc đó tôi trẻ thật) đã mạnh dạn viết lên những điều khó nói của cảm giác".
Kim Lân và Con chó xấu xí
Con nhà nghèo. Học đến lớp Nhất (tương đương lớp 5 bây giờ) cậu bé Tài (tên thật của nhà văn Kim Lân) đã phải đi phụ việc cho các thợ đàn anh sơn guốc, khắc tranh bình phong, giúp gia đình kiếm sống. Thế rồi, "đứa con người vợ lẽ" ấy cũng dần dà được người ta nhớ đến qua một vài truyện ngắn nổi bật: Làng, Vợ nhặt... Mọi việc tưởng xuôi chèo mát mái. Nhưng việc của đời người, sao lắm nỗi éo le... Khi nhà văn xứ Kinh Bắc bước vào tuổi tứ tuần - cái tuổi đang độ sung sức (cả về trí lực lẫn bút lực), thì Con chó xấu xí - một tác phẩm khá đặc sắc, lại đem "tai bay vạ gió" đến cho ông. Và cái đỉnh ấy cũng đặt dấu chấm hết cho văn nghiệp của nhà văn nông dân này.
Lúc bấy giờ đang có sự cố "Nhân văn - Giai phẩm". Sau khi viết Ông lão hàng xóm với tinh thần phê bình và tự phê (nhưng lại bị phê bình "mất lập trường"), Kim Lân đã viết Con chó xấu xí để chữa lại, đại ý tự nhận rằng: "Tôi là con chó xấu xí đây. Tôi đầy rẫy thói hư tật xấu đây. Nhưng mà tôi vẫn một lòng một dạ trung thành với dân tộc, đất nước!". Thế mà rồi vẫn bị đánh...
Ngót nửa thế kỷ sau. Nhớ lại chuyện này, ông cười xòa (cái cười đượm chút buồn): "Dạo ấy có mấy con gặp rắc rối... Con nai đen của ông Nguyễn Đình Thi, Con hùm con mồ côi của ông Nguyên Hồng, con Ngan tướng công của ông Vú Tú Nam và Con chó xấu xí của tôi... Thế là từ đấy hễ nhắc đến con gì người ta cũng sờ sợ, ngài ngại".
Sau Con chó xấu xí, Kim Lân đâm chán viết... Cho mãi đến tận bây giờ, khi gặp ông ở ngôi nhà cấp 4 của ông, trong cái phòng khách toen hoẻn 4 m2, ông mới giãi bày rằng, kỳ thực trong đầu ông đã chuẩn bị kỹ lưỡng một truyện ngắn. Và ông kể rất tỉ mỉ, rất tường tận đầu cua tai nheo cái truyện đó (cũng lại là truyện về chó). Một câu chuyện bi thảm về thằng Câm và con chó! Cái bi thảm ở chỗ không ai trên cõi đời này hiểu được thằng Câm - một thằng Người - bằng... một con chó! Nhưng rồi ông bảo ông không viết nổi truyện này. Mà không viết được truyện này thì những hào hứng khác cũng mất theo... Không viết nữa nhưng nhà văn vẫn quan tâm đến văn chương của lớp trẻ. Ông tâm sự: "Về văn chương chữ nghĩa, tôi thích ý tại ngôn ngoại. Tôi không thích kiểu huỵch toẹt trong văn chương, mà dường như bây giờ lớp trẻ lại có xu hướng đó. Nhưng tôi vẫn tin rằng văn học VN rồi sẽ có truyện hay, tác giả đặc sắc. Miễn là phải sáng tác bằng tài và tâm của mình, chứ đừng đem cái láu cá ra mà đổi chác".
Nguồn: Thể thao & Văn hóa (số ra ngày 21/1/2006)