Người gửi: Nguyễn Hòa Bình
Theo chuẩn quốc tế thì hiệu quả khoa học của nghiên cứu chính là chỉ số trích dẫn trong các nghiên cứu sau này - điều được thể hiện qua danh tiếng của tạp chí mà bài báo của tác giả được đăng, cụ thể hơn đó là là chỉ số impact factor (IF).
Ví dụ, chỉ số IF năm 2008 của báo Nature là 31.434, các tạp chí khác sẽ thấp hơn rất nhiều. Việc bài báo khoa học được đăng trên các tạp chí có chỉ số cao là rất khó khăn và nó phải thực sự mang tính đột phá và có ý nghĩa lớn (về lý thuyết cũng như ứng dụng thực tế).
Tôi chắc rằng phần lớn các nhà khoa học (có tầm) của Việt Nam đều biết điều này, và cuộc chạy đua về số lượng cũng như thời gian đăng các bài báo Quốc tế cũng rất khốc liệt. Cuộc đua này cũng diễn ra ở tất cả các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước có nền khoa học kỹ thuật tiên tiến.
Vậy ở Việt Nam, chúng ta có đánh giá hiệu quả nghiên cứu khoa học theo cách này không? Tôi tin chắc là có. Theo tôi được biết thì đó là các nhà khoa học có tầm quốc tế. Họ thực hiện dự án của nước ngoài và chỉ phòng lab nào có nhiều bài báo được công bố trên tạp chí uy tín mới có thể tiếp tục được cấp kinh phí. Tôi cũng được chứng kiến cách làm này tại Hàn Quốc.
Tuy nhiên, không phải tất cả các dự án tại Việt Nam đều được đánh giá như vậy (đặc biệt là các dự án do Nhà nước cấp kinh phí). Tôi không rõ tại thời điểm này đã có thay đổi nào trong việc xét duyệt dự án hay chưa, nhưng cách đây 3 năm, tôi đã chứng kiến một buổi đánh giá kết quả dự án do Nhà nước cấp kinh phí.
Khi đó người trưởng nhóm (dự án được chia làm nhiều nhóm) đứng lên trình bày kết quả thực hiện dự án trước một hội đồng gồm những người quản lý về mặt giấy tờ, hành chính, tài chính (những người không có chuyên môn trong lĩnh vực của dự án). Tuy nhiên, hội đồng có một tờ mẫu in sẵn để điền nhận xét vào, và đỉnh điểm của buổi trình bày là một số thành viên trong hội đồng không thể điền một vài kết quả của dự án vào trong tờ mẫu được cung cấp (vì không có mục nào liên quan).
Tôi cũng không theo dõi tiếp kết luận cuối cùng sau buổi tranh luận, tuy nhiên qua đó cho thấy cơ chế, quy định của chúng ta trong việc đánh giá các nghiên cứu khoa học vẫn còn bất hợp lý.
Chúng ta cũng đã có dự thảo đề xuất đánh giá kết quả nghiên cứu khoa học bằng số lượng đơn đăng ký sáng chế (Patent). Tuy nhiên, việc này cũng rất không ổn vì khi đăng ký bảo hộ sáng chế thì các chi phí cho việc bảo hộ là rất lớn đồng thời người nộp đơn cần phải có những kế hoạch cụ thể để khai thác patent này, vì để được bảo hộ Patent thì giải pháp kỹ thuật phải đảm bảo được 3 yêu cầu: Tính mới trên toàn thế giới; Tính sáng tạo; và Khả năng áp dụng trong công nghiệp.
Mặc dù vậy, để đáp ứng được yêu cầu quy định đối với một dự án là phải có đơn đăng ký sáng chế, các nhà khoa học của chúng ta có thể "vẽ" ra rất nhiều các đơn đăng ký và nộp vào Cục Sở hữu Trí tuệ (họ không cần quan tâm là đơn đó có được bảo hộ hay không) vì chỉ cần tới số lượng đơn thôi mà.
Bản thân tôi, do đặc thù công việc, đã từng được tiếp xúc với một "nhà khoa học" có dự định nộp từ 5-7 đơn sáng chế cho một đề tài nghiên cứu của anh. Tôi rất bất ngờ về điều này, nhưng khi hỏi ra mới biết rằng anh chỉ cần số lượng đơn thôi - chắc là để đáp ứng được yêu cầu quy định.
Nền kinh tế của chúng ta đã hội nhập với Quốc tế, các nhà khoa học cũng cần phải được đánh giá theo tiêu chuẩn Quốc tế. Trong khi chúng ta chưa "nghĩ" ra được cách đánh giá nào "mới" thì hãy cứ theo những gì đã được chứng nhận bởi cộng đồng khoa học quốc tế đi đã.