Độc giả Quang Minh, 28 tuổi, có nguyện vọng hiến tinh trùng, giúp các cặp hiếm muộn và các phụ nữ có nhu cầu có con chính đáng, không vì mục đích kinh tế.
Anh có đủ điều kiện sức khoẻ, trình độ, song muốn biết có bị hạn chế số lần, địa điểm hiến, có phải công bố danh tính hay không và nghĩa vụ với đứa trẻ sau này ra sao.
"Tôi thực sự muốn làm việc này tình nguyện, song phải đúng đắn nhất có thể", anh chia sẻ với VnEpxress.
1.327 lượt vote trên VnExpress cho thấy, phần lớn độc giả cho rằng, pháp luật không giới hạn số lượng. Trong 41 bình luận, nhiều người khuyên anh Minh chỉ nên hiến một lần, thậm chí "suy nghĩ lại", "bớt tốt bụng"... do lo ngại vấn đề hôn nhân cận huyết sau này.
Về góc độ pháp lý, luật sư Vũ Tiến Vinh giải đáp, các vấn đề về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, việc cho tinh trùng, cho noãn, được quy định tại Điều 4, Nghị định 10/2015/NĐ-CP.
Theo đó, luật không quy định về số lần được hiến tặng nên về nguyên tắc pháp luật không hạn chế số lần. Tuy nhiên, người hiến chỉ được hiến tại một cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được Bộ Y tế công nhận được thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm. Nếu người nhận đã sinh con thành công thì người hiến sẽ không được hiến tiếp.
Theo điều 5 Nghị định 10/2015/NĐ-CP, người hiến phải không bị nhiễm HIV nhưng trên thực tế các cơ sở y tế còn quy định người hiến không mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục.
Người nhận phải là người vợ trong cặp vợ chồng đang điều trị vô sinh mà nguyên nhân vô sinh do người chồng hoặc là phụ nữ độc thân có nhu cầu sinh con và noãn của họ bảo đảm chất lượng để thụ thai.
Người nhận tinh trùng phải có đủ sức khỏe để thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm, mang thai và sinh con; không đang mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục, nhiễm HIV, bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm A, B; không bị bệnh di truyền ảnh hưởng đến thế hệ sau, không bị mắc bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình.
Với quy định này, luật sư nhận định, đối tượng nhận tinh trùng cũng bị giới hạn chứ không phải bất kỳ phụ nữ nào có nhu cầu.
Về công khai danh tính: Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh không được cung cấp tên, tuổi, địa chỉ và hình ảnh của người nhận tinh trùng, nhận phôi.
Về trách nhiệm pháp lý của người cho tình trùng: Việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản không làm phát sinh quan hệ cha, mẹ và con giữa người cho tinh trùng, cho noãn, cho phôi với người con được sinh ra, theo khoản 3 Điều 93 Luật Hôn nhân và gia đình.
Điều 94 Luật này còn quy định, con sinh ra trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là con chung của vợ chồng nhờ mang thai hộ kể từ thời điểm con được sinh ra.
Với quy định nói trên, luật sư Vinh giải đáp, giữa người hiến tinh trùng và đứa trẻ sẽ không phát sinh quyền nhân thân về cha, con; quyền về tài sản như cấp dưỡng, thừa kế...
Hải Thư