![]() |
Ông Nguyễn Hữu Bằng. |
- Thưa ông, hiện có tới 60% chuyến tàu Thống Nhất không đến đúng giờ, tỷ lệ này ở tàu E1/2 là 75%. Tại sao ta không chấn chỉnh tình trạng tàu đến chậm trước khi đặt mục tiêu rút ngắn hành trình?
- Ngành đường sắt Việt Nam đi chậm so với châu Âu và Nhật Bản khoảng 40-50 năm, chậm 20 năm so với Trung Quốc, chậm so với các nước ASEAN khoảng 5-7 năm. Vì thế việc tăng tốc độ, rút ngắn hành trình là vấn đề sống còn, nằm trong chiến lược phát triển của ngành. Việc rút ngắn hành trình tàu Thống Nhất xuống còn 28 giờ trong năm 2004 có thể thực hiện được bởi vừa qua 10 cây cầu trên tuyến đường sắt Bắc - Nam do Nhật Bản đầu tư đã được cải tạo. Sắp tới, việc bố trí cho tàu tránh, đỗ sẽ được làm khoa học hơn, thời gian tác nghiệp ở mỗi ga giảm, tốc độ chạy tàu sẽ được tăng lên ở những đoạn vừa được nâng cấp.
Việc đoàn tàu 30 giờ E1/2 trong 6 tháng cuối năm 2003 đến ga cuối không đúng giờ là do thời gian đó ngành đang sắp xếp lại cơ cấu tổ chức, quản lý chuyển từ liên hiệp sang mô hình công ty. Cơ chế chưa đầy đủ, tổ chức chưa chặt chẽ nên có chệch choạc về thời gian chạy tàu. Mặt khác, cuối năm nhà nước mới cấp vốn đầu tư xây dựng cơ bản, nhiều công trình đồng loạt thi công khiến tàu phải dừng lại chờ đợi lâu. Vì là lý do chủ quan nên chúng tôi hoàn toàn có khả năng khắc phục được việc tàu đến muộn.
- Tăng tốc độ chạy tàu trong điều kiện nền đường vẫn giữ nguyên, liệu có đảm bảo an toàn cho hành khách?
- Chúng tôi khẳng định hành khách được đảm bảo an toàn, tàu sẽ không rung lắc mạnh do được chạy trên lò xo không khí giống như tàu kéo đẩy đang chạy tuyến Hà Nội - Lào Cai. Mặt khác, tàu chỉ tăng tốc độ ở những đoạn đường đã được nâng cấp, có thể tăng được song không vượt quá 90 km/h.
- Từ 1/1/2004, ngành hàng không tăng giá vé đối với khách Việt Nam. Có thông tin rằng ngành đường sắt cũng tăng giá vé. Xin ông cho biết kế hoạch tăng giá vé của ngành?
- Việc tăng giá vé đường sắt phụ thuộc vào 4 yếu tố. Thứ nhất là quy luật cung cầu, nếu cầu nhiều hơn cung thì chúng tôi sẽ nghiên cứu tăng giá vé. Thứ hai là đường sắt phụ thuộc rất nhiều vào xăng dầu, sắt thép, điện, nếu các mặt hàng này tăng thì chi phí sản xuất phải tăng, giá vé cũng tăng theo. Thứ ba là nếu ngành đổi mới các dịch vụ ăn uống, vệ sinh, giải trí trên tàu thì tất nhiên giá vé phải cao hơn để bù lại chi phí đầu tư. Thứ tư là việc thay đổi giá vé phụ thuộc vào sự trượt giá của đồng tiền. Hiện hầu hết thiết bị của ngành đường sắt là mua của nước ngoài vì thế nếu đồng tiền bị trượt giá thì ngành phải có sự điều chỉnh để hoàn trả tiền mua.
Căn cứ vào 4 yếu tố trên, đường sắt sẽ nghiên cứu để có một mức giá cho phù hợp. Cụ thể, ngành đang nghiên cứu điều chỉnh giá cước cho một vài loại hàng theo hướng tăng cước vận tải. Sắp tới sẽ bỏ bớt tàu khách để chạy tàu hàng, tăng cường ở tuyến phía Tây, đi Trung Quốc để vận chuyển khoáng sản. Tăng bao nhiêu hiện chưa thể nói được, song không vượt quá 10%.
Còn đối với tàu khách, trong thời gian trước mắt giá vé chưa có sự thay đổi. Chỉ khi đưa đoàn tàu Thống Nhất 28 giờ vào vận hành (khoảng tháng 9/2004), kèm theo đó là việc đổi mới trang thiết bị, dịch vụ trên tàu, lúc đó mới có kế hoạch tăng giá vé.
- Giá vé tàu tăng sẽ gây ảnh hưởng nhất định tới nhân dân. Ngành đường sắt đã có sự chuẩn bị như thế nào?
- Tháng 7 vừa qua, chúng tôi vừa kết hợp với tổ chức của Đức tiến hành phỏng vấn khoảng 5.000 khách đi tàu trên tuyến Bắc - Nam, kết quả là 58% khách không hài lòng vì cách đối xử của nhân viên phục vụ, 57% không hài lòng vì khu phụ và giấy toilet thiếu và 38% không hài lòng với việc mua vé khó khăn. Như vậy rất ít hành khách kêu về giá vé đắt. Điều này chứng tỏ giá vé không phải là vấn đề quan tâm lớn của người dân bây giờ, mà họ quan tâm đến dịch vụ và thiết bị trên tàu.
- Hành khách kêu ca về chất lượng phục vụ trên tàu rất kém. Vậy trong năm tới, ngành đường sắt có kế hoạch đào tạo bài bản cho nhân viên như thế nào?
- Nhân viên trẻ trên tàu đều đã qua đào tạo tại trường trung học đường sắt. Hiện chỉ còn những nhân viên cũ, chưa được huấn luyện. Lớp này đã đứng tuổi và chuẩn bị về hưu. Sắp tới, để nâng cao chất lượng phục vụ, ngành xác định sẽ đào tạo lại toàn bộ từ lãnh đạo xuống nhân viên. Đối với nhân viên cần chấn chỉnh phong cách phục vụ, thái độ cư xử với khách hàng. Lãnh đạo sẽ được bồi dưỡng kỹ năng quản lý. Hiện có tình trạng giám đốc không nắm được các văn bản chính sách nhà nước, quản lý nhân viên lỏng lẻo.
- Vừa qua, dù đã triển khai bán vé làm hai đợt, đợt một cho tập thể, đợt hai cho cá nhân, song việc bán vé ở ga Sài Gòn rất lộn xộn. Xin ông cho biết nguyên nhân của tình trạng này và hướng xử lý?
- Nguyên nhân là việc bán vé tập thể chưa đạt yêu cầu. Chúng tôi dự định là sẽ tiêu thụ 50% lượng vé bằng cách bán cho tập thể, song do việc phối hợp giữa nhà ga và doanh nghiệp, đặc biệt là khối doanh nghiệp tư nhân, trường học chưa được tốt nên trong đợt 1 chỉ tiêu thụ được khoảng 20% lượng vé. Số còn lại dồn vào đợt thứ hai gây nên tình trạng lộn xộn.
Mặt khác, chúng tôi chỉ đạo là bán vé theo chặng đường nhằm giảm thời gian chờ đợi cho khách. Tuy nhiên, phía ga Sài Gòn đã áp dụng hơi máy móc. Đúng ra phải bán vé từ Vinh trở ra Hà Nội từ ngày 11/12, sau đó bán từ Huế trở ra và bán cho đến hết vé thì thôi, chứ không phải mỗi chặng chỉ bán trong 3 ngày. Do việc thông báo ngày bán, số lượng vé bán không chu đáo nên khách hàng không biết, phải chờ đợi lâu. Chúng tôi sẽ rút kinh nghiệm trong những năm sau.
Như Trang