Ba trong số 6 thủy thủ trên con thuyền gỗ đầu tiên vượt biển ra Bắc nay đã mất do tuổi già sức yếu. Nửa còn lại cũng gần bước sang tuổi "thập cổ lai hy". Gần ngày kỷ niệm 36 năm giải phóng miền Nam, thủy thủ Nguyễn Văn Đức (Sáu Đức) bồi hồi nhớ lại 9 ngày đêm lênh đênh trên biển.
Năm 1960, sau Đồng khởi Bến Tre, khí thế cách mạng của nhân dân miền Nam dâng cao ngùn ngụt. Trung ương Đảng chỉ thị cho các tỉnh Nam bộ chuẩn bị bến bãi và cho thuyền thăm dò ra miền Bắc, mở đường nghiên cứu phương tiện vận chuyển trên biển, nếu có điều kiện thì chở vũ khí về. Bà Nguyễn Thị Định - Bí thư Tỉnh ủy Bến Tre đã trực tiếp chỉ đạo đóng những con thuyền vượt biển ra Bắc. Ông Nguyễn Văn Khước - Khu ủy viên khu Trung Nam Bộ (khu 8) được điều về huyện Thạch Phú (Bến Tre) tuyển mộ thủy thủ.
![]() |
Thủy thủ Nguyễn Văn Đức (áo trắng) đang ôn lại kỷ niệm thời chiến tranh với các cựu chiến binh. Ảnh: Tá Lâm. |
Đang vật lộn với mảnh lưới đánh cá, chàng trai 20 tuổi Sáu Đức, lúc bấy giờ là Bí thư xã đoàn Thạnh Phong (Bến Tre), được lệnh về gấp. Háo hức chạy về, Đức chỉ nhận được vỏn vẹn một câu nói từ vị Khu ủy Viên khu 8: "Chuẩn bị lên đường thành lập đội sản xuất tự túc để nuôi quân giải phóng".
10 ngày trước khi lên đường, ông Khước báo cho Sáu Đức cùng 5 anh em khác cũng được tuyển chọn là Nguyễn Văn Kiệm, Đặng Bá Tiên, Nguyễn Văn Giới, Lê Văn Nhung và Đặng Văn Bê biết nhiệm vụ tối mật - ra Bắc xin vũ khí bằng đường biển trên một con thuyền gỗ. Quá bất ngờ khi biết mình được chọn làm nhiệm vụ quan trọng, chàng trai trẻ hăng hái nhận dù biết phía trước đầy thử thách.
Tiêu chí để chọn thủy thủ lúc bấy giờ chủ yếu là người địa phương kiên trung, dũng cảm, biết đọc địa hình vùng biển, được dân tin yêu, có sức khỏe và đã trải qua thử thách Đồng khởi.
Trước lạ sau quen, 6 anh em dần dần thân thiết. Họ chuẩn bị 50kg gạo, 3 kg cá khô, một thùng phi dầu (khoảng 150 lít), củi đốt và 300 sải lưới đánh cá... chất lên con thuyền gỗ dài hơn 10 mét được gắn một máy đẩy công suất nhỏ, ngụy trang thành thuyền đánh cá, mang tên thuyền Bến Tre 1.
Đầu tháng 6, nhận thấy gió mùa Tây Nam hoạt động mạnh tạo thuận lợi cho thuyền bè ra Bắc, ông Khước họp anh em và quyết định lên đường.
![]() |
Con thuyền gỗ (mô phỏng) đầu tiên vượt biển ra Bắc xin viện trợ vũ khí. Ảnh tư liệu. |
17h chiều 1/6/1961, trên bãi Cồn Lợi (Thạnh Phú, Bến Tre), một chiếc thuyền nhỏ nhổ neo ra khơi mang theo một niềm hy vọng cháy bỏng mở đường vận chuyển vũ khí trên biển. Phía trên đất liền, để đảm bảo bí mật, chỉ có duy nhất Mười Khước đến chào tạm biệt, chúc họ lên đường bình an.
Sau hai giờ ra khơi, một cơn giông cấp 8 ập đến khiến con thuyền gỗ chao đảo dữ dội. Nước biển bắt đầu tràn vào thuyền. Những thủy thủ ngồi trên mạn ra sức lấy tay tát nước. Sau ba giờ đồng hồ, cơn giông lắng xuống, những hành trang mà họ mang theo như gạo, cá khô... chìm trong nước.
Cơn giông đã làm cho ba anh em Kiệm, Tiên và Giới say sóng nằm quằn quại trên thuyền. Những anh em còn khỏe thay nhau trông máy, nấu cháo cho những người bị say. Do nước ngọt bị sắt rỉ từ thùng phi đựng dầu rơi xuống đỏ ngầu, họ phải đun sôi để nguội, sau đó sớt phần nước phía trên để uống.
Không la bàn và hải đồ, ban ngày họ vượt biển cách xa đất liền 40 km lấy sao Bắc Đẩu làm chuẩn, ban đêm họ đi gần bờ hơn, cách 20 km, lấy ánh trăng để làm tiêu vượt lên phía trước. Những đêm không có trăng sao họ đi "mò", mặc con thuyền xuôi theo hướng gió. Dù gian khó khi liên tiếp gặp giông tố, nhưng trong lòng những thủy thủ luôn ấp ủ một niềm tin sẽ có ngày đến đích.
Sau 7 ngày lênh đênh trên biển, họ tiến sát vĩ tuyến 17, nơi chia cắt hai miền Nam - Bắc. Hôm đó đang là thứ 6, đội tuần tiểu trên biển của quân Mỹ khá dày đặc. Ba Tiên cùng các anh em ngồi lại bàn kế hoạch và quyết định đêm thứ 7 sẽ vượt biển vì vào ngày cuối tuần quân Mỹ thường xả hơi ăn chơi. Gần nửa đêm, con thuyền gỗ lặng lẽ vượt biển.
4h sáng ngày 10/6, con thuyền gỗ neo đậu cửa Ròn (Hà Tĩnh). Tuy nhiên, lúc bấy giờ những người thủy thủ không biết địa danh mà họ đang đứng. Hơn một giờ đồng hồ sau, một tốp ngư dân lấp ló ra biển. Sáu Đức tiến lại gần một phụ nữ trạc tuổi 40 hỏi và người phụ nữ này cho biết, đang ở trên đất Hà Tĩnh. Họ vui sướng nhưng không dám để lộ niềm vui ra ngoài vì họ đang làm nhiệm vụ bí mật. Sau đó, các thủy thủ được Trung ương Đảng đưa ra Bắc gặp Bác.
Sau thành công của con thuyền gỗ đầu tiên mang tên Bến Tre 1, từ 1/8/1961 đến 25/4/1962, bốn con thuyền gỗ khác gồm Bến Tre 2, Cà Mau, Trà Vinh và Bà Rịa cũng lần lượt ra Bắc.
![]() |
Tàu không số chở vũ khí vào Nam. Ảnh tư liệu. |
Đầu năm 1962, các thủy thủ được vào Phủ Chủ tịch gặp Bác Hồ. Ai cũng hồi hộp và xúc động vào giây phút hạnh phúc được gặp Bác. Một số anh em không khóc nhưng nước mắt cứ tuôn rơi. Bác bước ra, bắt tay từng người, hỏi thăm sức khỏe và nói: "Các chú ra đây có yêu cầu gì đối với Trung ương nào?". "Thưa Bác, chúng cháu ra đây có một nguyện vọng là xin được thật nhiều vũ khí để về đánh giặc. Chúng cháu cũng muốn xin vũ khí gì phá được đồn bốt và ấp chiến lược của Mỹ", tất cả đồng thanh thưa.
"Không chỉ đồn bốt... Mỹ có thể đưa quân vào. Phải chuẩn bị đánh lâu dài, đánh thắng quân đội có trang bị hiện đại của Mỹ nữa...", Bác Hồ nhìn anh em thủy thủ tươi cười nói.
Quá trình dò đường vượt biển thành công của 5 con thuyền gỗ đã giúp Trung ương có thêm quyết tâm tổ chức những con tàu chở vũ khí vào Nam theo đường biển. Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Đoàn tàu không số và mở đường Hồ Chí Minh trên biển để vận chuyển vũ khí chi viện cho miền Nam đánh Mỹ cứu nước, đóng góp to lớn vào chiến thắng 30/4/1975.
Tá Lâm