![]() |
Cây coca. Ảnh: Wikimedia. |
Chuyện nghiện ngập chẳng qua là lỗi của người dùng, vì đã lạm dụng chúng vào mục đích tìm khoái cảm.
Cocain
Cây coca là một loại ma túy cổ điển. Cây này có nguồn gốc từ Nam Mỹ. Từ xa xưa, thổ dân Nam Mỹ đã dùng lá coca để chống đói và làm giảm sự mệt mỏi. Người dân Peru thường nhai lá coca với vôi như người Việt Nam ăn trầu. Lá này được nhập vào châu Âu để chế tạo rượu vang coca.
Đến năm 1860, một dược sĩ người Australia là Albert Niemann mới chiết xuất từ lá coca chất cocain, một tinh thể hình kim, không màu và mùi, vị hơi đắng mát, để lại trên lưỡi cảm giác tê và hơi rát.
Mãi 23 năm sau, một bác sĩ dùng nó để thử nghiệm với binh lính Đức. Tuy vừa trải qua cuộc duyệt binh, mỏi mệt và rã rời, họ đã lại bình phục, đứng dậy và đi suốt đêm. Đến năm 1884, người ta còn phát hiện thuốc này giúp giảm đau và có công hiệu trong các bệnh lao phổi, hen suyễn, đau thần kinh liên sườn, đau răng.
Cocain càng nổi tiếng hơn khi một cuốn sách của bác sĩ Sigmund Freud viết về cây coca được xuất bản. Tác dụng làm tăng sức khỏe của chất này được thể hiện trong nhiều sản phẩm: Thuốc bổ coca, kẹo coca và nước giải khát coca. Nó được nhiều người ưa chuộng, trong đó có những người nổi tiếng như nữ hoàng Victoria, nhà văn chuyên về khoa học viễn tưởng Jules Verne. Trong Thế chiến thứ nhất đã xuất hiện mốt "Cocanism" trong giới văn nghệ sĩ ở Đức.
Cocain gây nghiện, gây hoang tưởng bộ phận. Ngành dược dùng cocain để gây tê, bôi hay nhỏ giọt; trong phẫu thuật dùng dung dịch tiêm (nhưng không phổ biến).
Vừa qua, các nhà khảo cổ đau đầu vì khi phân tích các xác ướp ở Ai Cập thời cổ đại, họ thấy nhiều xác có dấu vết của cocain trong khi cây coca không có ở xứ sở này.
Thuốc phiện
Còn có tên là nha phiến, á phiện... Đó là nhựa khô lấy ở quả chưa chín của cây thuốc phiện. Trong thuốc phiện có morphin, công dụng chính là giảm đau, gây ngủ.
Từ giữa thế kỷ 16, Paracelsus - thày thuốc người Thụy Sĩ - đã dùng thuốc phiện để chữa các bệnh được cho là sinh ra từ đầu người, do một liên tưởng rất mộc mạc là hình quả anh túc giống đầu người.
Dân quanh vùng Địa Trung Hải đã phát hiện tính năng giảm đau của thuốc phiện và coi nó là thứ cây thiêng liêng. Paracelsus khi thăm bệnh nhân thường mang theo một chiếc gậy, ở đầu gậy có quả cầu bằng sắt, trong chứa những viên thuốc phiện sống dùng cho những trường hợp cần thiết.
Các tài liệu còn cho thấy thuốc phiện đã làm biến mất những cơn đau dạ dày của Hồng y giáo chủ Richelieu nhưng lại kết thúc cuộc đời đại văn hào Voltaire.
Ở Việt Nam, nhiều khả năng thuốc phiện xâm nhập cuối thế kỷ 18 và lan tràn nhanh chóng. Đến đầu thời Minh Mạng (1820), nhà vua ra lệnh cấm thuốc phiện và xử tội nặng những người tàng trữ, buôn bán hay sử dụng nó. Đến thời Pháp thuộc, thuốc phiện được nhập ồ ạt.
Thuốc phiện được dùng trong ngành dược dưới dạng: bột, cao, cồn, xiro (diacot hay thebaic).
Morphin
Là tinh thể hình kim, vị đắng nhẹ, để lâu ngoài ánh sáng sẽ thành bột màu đỏ, là alcaloid chính của thuốc phiện. Nó được nhà khoa học người Đức là Friedrich Wilhelm Jertuner tìm ra ở thế kỷ 19. Ông làm việc tại một hiệu thuốc, thường xuyên chứng kiến cuộc tranh cãi giữa một bác sĩ và chủ nhà thuốc vì tác dụng không đồng nhất của thuốc phiện qua các lần sử dụng, nên quyết tâm tìm lời giải đáp.
Năm 1803, qua 57 lần chiết xuất thử nghiệm, Friedrich đã thu được ở thuốc phiện một dạng bột tinh thể không màu, đặt tên là morphium (theo tên Thần mơ mộng Morpheus trong thần thoại Hy Lạp), ngày nay gọi là morphin. Ông thử cho chó uống dung dịch morphin và tùy theo liều lượng ít hay nhiều, chó có thể ngủ ngắn hay dài mà không cảm thấy những tác động cơ học vào chúng.
Báo chí lúc đó vội vàng tuyên bố con người sẽ không còn biết đau nữa nhờ morphin. Một bác sĩ phẫu thuật nổi tiếng lúc đó đã nói: "Nếu không có morphin thì tôi chẳng muốn làm nghề bác sĩ". Do đó, nó đã được dùng rộng rãi trong cuộc nội chiến ở Mỹ và hậu quả là rất nhiều thương bệnh binh bị nghiện, đến mức người bấy giờ gọi hiện tượng này là "bệnh của binh lính".
Đến năm 1952, người ta đã chế được morphin nhân tạo sau khi tìm ra cấu trúc hóa học của nó. Hiện nay, morphin vẫn là át chủ bài trong việc giảm đau do ung thư.
Heroin
Được nhà hóa học người Anh Alder Wright tìm ra vào năm 1874. Ông lấy morphin đun sôi với anhydrid acetic vài giờ, thu được những tinh thể trắng, không mùi, vị đắng, đó là diacetylmorphin. Ông thử nghiệm cho chó, thấy nó sợ hãi, bị kiệt sức, có triệu chứng nôn mửa sau đó ngủ thiếp đi.
Alder Wright thôi không quan tâm đến nó. Nhưng gần 20 năm sau, nhà khoa học Đức Dresser nhận thấy diacetylmorphin có tác dụng đặc hiệu trị các bệnh về đường hô hấp như viêm phế quản, hen suyễn, ho lao. Ông cho rằng nó không gây nghiện nên có thể dùng thay morphin. Lập tức, tập đoàn dược phẩm Bayer liền sản xuất đại trà, đặt tên là heroin (theo từ tiếng Đức "Heroisch" nghĩa là năng lực). Thuốc được dùng để chữa ho.
Mãi sau này, người ta mới nhận thấy tác hại gây nghiện nặng của heroin. Riêng ở Mỹ, tính đến năm 1924 đã có hơn 200.000 người nghiện heroin khiến quốc hội phải ban hành đạo luật cấm sản xuất, tàng trữ, sử dụng nó.
Tại Việt Nam, heroin theo chân quân đội Mỹ đổ bộ vào những năm đầu 1960 và sau đó gây ra nạn nghiện. Hiện nay, heroin không còn được sử dụng trong ngành dược.
Amphetamin
Được tổng hợp năm 1887 và dùng trong ngành y từ năm 1932 trong các bệnh hen phế quản, ngủ rũ, trầm cảm, ngộ độc thuốc ngủ hoặc thuốc an thần.
Những năm 1960-1970, nó được dùng rộng rãi trong giới sinh viên, học sinh trong các kỳ thi căng thẳng, làm thuốc giảm béo, thuốc chống đói. Hiện nay, người ta đã điều chế được nhiều chất có cấu trúc hóa học gần giống amphetamin, được gọi là nhóm amphetamin, có tác dụng kích thích thần kinh mạnh hoặc gây ảo giác, trong đó điển hình là ecstasy (MDMA - methylenedioxy methamphetamin), được dùng hợp pháp ở Mỹ.
Trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai, quân đội đồng minh đã dùng ecstasy để chống buồn ngủ. Vào cuối những năm 1970, nó trở thành loại ma túy phổ biến trên toàn thế giới. Do loại ma túy này có nhiều tác hại đến sức khỏe nên đã bị cấm lưu hành và sử dụng.
(Theo Sức Khỏe & Đời Sống)