![]() |
Tượng cổ trong biệt phủ Thành Chương. |
Cũng khó có thể coi đây là một thú chơi tâm linh, uyên bác, đậm nét văn hóa hay là một sự học đòi trưởng giả của những trọc phú, nhà giàu. Tượng cổ, tượng quý hiếm VN tại các đình chùa thì cứ lần lượt biến đi, không biết đi đâu. Trong khi “tượng thị trường” (Trung Quốc, Bát Tràng, các làng nghề) lại là mặt hàng bán được với sự xuất hiện của nhiều phố tượng, nhiều hội chợ, nhiều cửa hàng cửa hiệu...
Phố Hàng Quạt lâu nay được biết đến như “phố đồ thờ” sầm uất nhất Hà Nội. Tại đây bày bán tất cả những gì người dân ưa tín ngưỡng và “thế giới đồng bóng” cần: vàng mã, cờ phướn, nến hương, chuông khánh, áo quần hầu đồng và... tượng.
Ngược lại lịch sử, từ những năm 1936-1940, Hàng Quạt nổi lên trong 36 phố phường bởi nghề làm khuôn bánh khảo và làm con dấu. Những năm Hà Nội đã có bát ăn bát để, khi nhu cầu thờ cúng gia tiên được nâng lên thành “văn hóa thờ cúng”, Hàng Quạt dần chuyển sang bày bán những mặt hàng mã đa dạng: bát hương, đĩa nến, ban thờ...
Đến những năm 1992-1993, Hàng Quạt rộ thêm bởi đồ sơn son thếp vàng. Người mang lại tiếng tăm cho phố không ai khác là "ông đồng" Thịnh, một "ông đồng" nổi tiếng không chỉ trong giới đồng bóng mà thậm chí cả Hà Nội. Khách rầm rập tới phố là những con nhang đệ tử của ông, xuôi ngược từ nội thành đến tỉnh xa với nhu cầu mở điện thờ, hầu đồng, cúng lễ...
Bởi thế, khi thú chơi tượng không còn âm ỉ chỉ trong thế giới buôn bán đồ cổ thì Hàng Quạt được biết đến là “chợ tượng” đầu tiên. Mặt hàng chính của phố là tượng gỗ truyền thống VN. Giá cả tương đối mềm, chất lượng, với một số pho thuộc hàng “top”: Phật bà “nghìn mắt nghìn tay” cao khoảng 1,2 m, gỗ mít, sơn son thếp vàng, giá hơn 3 triệu đồng. Một đôi “tiên đồng ngọc nữ” bằng gỗ mít, cao khoảng 50 cm giá 450.000-500.000 đồng.
Chú Tễu, tượng người nông dân VN mộc mạc, lạc quan với nhiều thế: Tễu dâng đèn, Tễu quỳ lạy, Tễu cầm quạt... được ông đồng bà cốt mua nhiều, với kích cỡ 25-30 cm một đôi, giá khoảng 250.000-300.000 đồng. Các pho tượng công chúa (các cô, các cậu) với vóc dáng, trang phục cổ xưa kích cỡ khoảng 60 cm, giá: 600.000-700.000 đồng. Khách mua là những người lập đền, điện hầu bóng.
Ngoài phố truyền thống dân dã tâm linh như Hàng Quạt, còn những phố tượng hiện đại với các cửa hàng bảng đèn điện sáng trưng, ông bà chủ nhẫn vàng lấp lánh, nói điện thoại di động như gió. Đó là Đê La Thành, Lê Duẩn... các chợ tượng Trung Quốc tại Hà Nội mở ra theo dạng triển lãm, trưng bày sản phẩm, tìm mối bán buôn.
Chợ tượng Trung Quốc mở ra gần đây nhất ở phố Hàng Bông do chính người Trung Quốc bán hàng. Nói về truyền thống, kỹ thuật làm tượng nung thì các tay thợ VN không thể sánh bằng: họ chuẩn mực từ khuôn tượng, nước men trong sáng đến màu sắc rực rỡ, đường nét sắc sảo, hình thức phong phú. Bởi thế giá tượng sứ Trung Quốc bao giờ cũng đắt hơn nhiều lần nếu so cùng “phom”, kích cỡ.
Loại tượng người trung niên, cao tuổi hay mua nhiều là tượng Quan Công. Một pho Quan Công cầm đao cao 60 cm của Trung Quốc giá khoảng 1 triệu đồng, trong khi hàng composite VN (hàng giả đồng bằng cách phun nhũ) giá khoảng... 150.000 đồng. Trong khi Quan Công Trung Quốc được khắc họa đâu ra đó, từ râu mày uy nghi, long đao sắc lẻm, tư thế hùng dũng, các thế rõ ràng từ Quan Công chống đao đến Quan Công đánh cờ..., thì Quan Công VN rất khó nhận ra, thậm chí ai không hiểu lịch sử Tam Quốc không thể biết đó là ông Quan Công nếu không có... chú thích hàng hóa gắn cạnh đó.
Với ông Di Lặc bụng to bằng sứ Trung Quốc, dáng ngồi, cao khoảng 45 cm, giá: 800.000-1.000.000 đồng (hàng do người Trung Quốc bán tại VN, nếu qua tay buôn VN thì giá còn cao hơn). Trong khi Di Lặc composite giả đồng VN cùng kích cỡ, giá chỉ 100.000-120.000 đồng. Ông Di Lặc sản xuất tại Bát Tràng trông ngô nghê, quần áo xộc xệch do làm bằng khuôn rẻ tiền; giá còn rẻ hơn: 30.000-40.000 đồng...
Nhưng có một điều chỉ người am hiểu tượng thật sự biết: tuy tốt vậy nhưng hàng Trung Quốc (chủ yếu xuất khẩu từ Giang Tây, Quế Lâm, Cảnh Đức Chấn... gọi là hàng đánh quả) đều là hàng chợ, hàng địa phương kiểu như Bát Tràng 1, Bát Tràng 2 tại VN. Tất cả chưa thể sánh bằng hàng nội địa cao cấp tại Trung Quốc.
Có thể xem khoảng những năm 1994-1995, khi dòng tượng Phục hưng của châu Âu tràn về VN, chính là thời điểm mở ra một phong cách chơi tượng mới khác hẳn kiểu chơi tượng của các đại gia trong giới buôn bán, chơi đồ cổ. Khi đó, không biết bằng cách nào, một tay trong giới buôn đồ cổ chuyển được từ châu Âu về Sài Gòn một khuôn tượng cô gái đang đi và nâng mái tóc. Đây là một kiệt tác về nghệ thuật đúc tượng thạch cao vào thời đó, mặc dù nó chỉ là một khuôn tượng được “chép lại” do bàn tay tinh tế của thợ châu Âu.
Lập tức, các phiên bản cô gái nâng mái tóc được sản xuất và bán chạy như tôm tươi tại đường Trần Quốc Thảo, giá hơn 1 lượng vàng/tượng. Tượng được khắc họa uyển chuyển, nhìn như đang chuyển động, càng nhìn càng thấy nhiều góc đẹp. Hai phiên bản của bức tượng này lập tức được chuyển ra Hà Nội. Một trong hai người sở hữu bức tượng đó là ông Minh, một tay chơi đồ cổ “đại thụ” từ thời Pháp. Ông Minh lập tức thuê thợ Đại Bái, Bắc Ninh phục chế bức tượng bằng cách chuyển sang... tượng đồng. Riêng giá tiền công và đồng đã là 2,4 lượng vàng. Bức tượng được làm thêm chi tiết, làm cũ đi như một kiệt tác thời Trung cổ.
Sau thời điểm này, hình ảnh các pho tượng châu Âu phục hưng đặt tại phòng khách những gia đình Hà Nội giàu có đã trở thành phổ biến. Phần nhiều trong đó là tượng thần vệ nữ cụt tay, cao khoảng 60 cm, sau đó nhiều người chơi tự nâng chiều cao này lên thành 1,2-1,6 m. Thời gian sau, bức tượng “cô gái rót nước”, “nàng tiên cá” nổi lên và chiếm được nhiều cảm tình.
Những năm gần đây, người chơi dòng tượng châu Âu chuyển sang tìm cách thể hiện mới: tượng lực sĩ Hercules cao 1,6 m, chất liệu cao cấp nhất là composite (giá 4-5 triệu đồng), tiếp đó là ximăng giả đá (2-3 triệu đồng), rồi đến thạch cao. Tượng cô gái cầm bình nước, cô gái dâng con hến có nước chảy xuống, kích thước từ 90 cm đến 1 m, chất liệu composite, giá trung bình 2,5-3 triệu đồng. Rồi tượng thần Apollo, thần tình yêu...
Để chơi được tượng châu Âu, ngoài có... tiền, người chơi cần không gian nhà rộng rãi và cách bài trí khoa học. Đặt tượng đẹp nhất là góc tường khoét, trong đó có đèn hắt ra, đèn ngoài chiếu vào, bên trên rọi xuống; bức tượng trở nên lung linh huyền ảo. Ngoài đèn chiếu, tượng đứng nhất thiết phải đi chung với kệ, không được kê sát trần, xung quanh không bày biện đồ đạc lộn xộn.
Được dân chơi tượng đánh giá gần đồng hành với mốt chơi tượng châu Âu về mặt thời gian, nhưng trào lưu chơi tượng gỗ giả cổ lại bắt đầu với một câu chuyện ly kỳ khác: dân buôn bán, chơi tượng cổ Hà Nội không mấy xa lạ Côi “Ma” (khôn như ma), ở ngõ Quỳnh. Đầu thập niên 1990, Côi “Ma” gom được một lô hàng đồ cổ lớn và tuồn vào TP HCM. Trên đường vận chuyển sang nước ngoài, lô hàng bị công an “tóm”. Vốn xuất thân là một nhà giáo, có chiến lược làm ăn rõ ràng, Côi “Ma” thấu đáo nhận ra rằng; tượng giả cổ sẽ là mặt hàng làm ăn được. Về Bắc, Côi quyết đi theo con đường này. Và bạn hàng từ thuở tập làm tượng giả cổ của Côi không ai khác là Đức “Cận”, em trai họa sĩ Thành Chương, người lập phủ Thành Chương với một kho tàng tượng tại Sóc Sơn, Hà Nội.
Ông Đức cũng là một cao thủ khác trong làng làm tượng giả cổ. Thời điểm này, ông Đức dường như chú tâm chuyển hướng sang nghệ thuật nhưng tại gian nhà sàn ông ở giữa thủ đô (dốc Vĩnh Phúc, quận Ba Đình) vẫn nuôi 7-8 thợ làm tượng. Ông Đức khoe: “Chúng tôi làm tượng cổ giả như thật”. Khoảng năm 1995-1996, ông Đức gom một lô hàng gồm 300 pho tượng giả cổ vào TP HCM. Lại bị công an phát hiện và cho rằng... đây là đồ cổ.
Ông Đức kể: “Tôi nói nếu các ông cho đây là tượng cổ thì ký hợp đồng đi, tôi sẽ làm giống hệt như thế này. Không tin, cứ chẻ tượng ra xem gỗ mới hay cũ”. Ông Đức vẫn bị thu hàng, sau được trả lại nhưng kế hoạch “Nam tiến” coi như phá sản.
Về Hà Nội, làm chung tượng giả cổ với Côi “Ma” một thời gian thì ông Đức tách ra làm riêng. Ông Đức kể, nhà sàn của ông hiện là CLB sinh hoạt của giới họa sĩ và làm phim. Khách đến mua chủ yếu anh em biết chơi hoặc người nước ngoài. Đoàn làm phim Mùa hè chiều thẳng đứng, Thời xa vắng... cũng đã đến đây thuê đồ hoặc nhờ ông Đức thiết kế làm cũ lại những hình tượng dùng để đóng phim.
Trong các dòng chơi tượng, dù thời điểm nào thì tượng cổ vẫn là mặt hàng “trừu tượng” nhất, từ giá cả, cách nhìn, sở thích... Không gì có thể cân đo đong đếm. Quý như tượng cổ và hiếm như tượng cổ. Thập niên 1990, khi trục vớt một con tàu đắm ở Hòn Cau, Vũng Tàu, người ta tìm thấy khoảng 15.000 món đồ vật được coi là cổ, gồm bình, lọ, bát đĩa và tượng. Theo giới buôn bán thạo tin, giá trị gần 300 món bình lọ bát đĩa trong số này nếu đem đổi, mới chỉ ngang bằng được giá trị tượng một người hầu đang dâng đèn màu lục.
Công nghệ làm giả đang ngày càng được "nâng cấp". Chẳng hạn, việc làm giả một bức tượng Quan Âm bằng gỗ mít từ thế kỷ 18 chỉ diễn ra trong... một tháng. Đầu tiên, ông thợ đục sẽ trổ tài đục đẽo theo y chang kích cỡ và “anatomy” pho tượng cổ thật. Sau đó, ông thợ sơn tiếp quản bằng các kỹ thuật hom, bó; rồi sơn lót, sơn thí, sơn toát, thếp bạc, phủ cánh gián. Chỗ nào cần son sẽ sơn son. Chỗ nào cần cánh gián là cánh gián.
Đợi sơn khô, ông này sẽ dùng “đèn khò” khò vào bề mặt phần sơn thếp làm bề mặt có những vết lốm đốm như vệt thời gian: phong sương của 200-300 năm trước lập tức hiện về chỉ sau chưa đầy một tiếng đồng hồ khò. Theo con mắt nhà nghề của tay buôn, họ sẽ chỉ đạo thợ khò đến mức độ nào cần ngừng khò để không cháy, độ lốm đốm đạt tiêu chuẩn của ngày xưa. Sau đó, bùn phù sa sẽ được quét lên và lau khô. Các vết bẩn bám vào khe kẽ sẽ được biến hóa thành đồ lâu đời. Tay buôn sẽ gửi pho tượng này cho “thợ chạy” vào một vùng nông thôn. “Thợ chạy” bắn tin cho khách mua. Gặp tay buôn giỏi sẽ biết ngay đồ dỏm, tay buôn non tay sẽ bị lừa "đây là tượng của một ngôi chùa thanh lý", hoặc "vớt được ở sông". Buôn mua về bán lại cho khách chơi. Khách có thể bị lừa vài ba chục triệu trong khi giá bức tượng chỉ là 300.000-400.000 đồng.
![]() |
Họa sĩ Bùi Mai Hiên với những món đồ cổ. |
Trong giới các tay chơi đồ cổ ở đất Hà thành không thiếu phụ nữ. Nhưng không có nhiều người thật sự “say” với nghiệp sưu tầm và “nghiện đồ cổ” như họa sĩ Bùi Mai Hiên.
Theo Mai Hiên, trong mỗi cổ vật đều chứa đựng những nét đặc trưng các tầng văn hóa của người xưa: “Từng đồ vật, từng chi tiết dù tinh xảo hay thô mộc của cổ vật đều khắc họa thế giới vật chất và tinh thần của cha ông...”. Chơi đồ cổ đồng nghĩa với phải có tiền nên những ước ao của Mai Hiên chỉ được đặt vào những món nho nhỏ: cái đĩa, ông bình vôi, chum lọ... Mãi tới năm 1990, khi ra mắt triển lãm tranh đầu tiên “Mùa thu năm 90” khá thành công cả về nghệ thuật lẫn tài chính thì Mai Hiên mới chính thức thỏa nguyện được ước mơ sưu tập đồ cổ.
Lượng cổ vật họa sĩ Mai Hiên đang sở hữu đã lên đến số nghìn, nhưng đáng nói hơn là chị có những món vào hàng độc nhất vô nhị. Trong ba căn gác trên phố Nguyễn Thái Học, chị chất kín những cổ vật. Từ những thứ thông thường như bình vôi, chum sành cho tới những đầu rồng, phượng cùng thời với những gì vừa tìm thấy ở hoàng thành Thăng Long. Tất cả niềm say mê của chị dồn vào cổ vật thời Lý - Trần - Lê. Chị là một trong số ít các nhà sưu tầm chỉ say mê đồ cổ Việt mà thôi.
Bước chân vào nhà chị, gặp ngay chiếc đĩa “Lưỡng long chầu nguyệt” đường kính đến 82 cm, chiều cao 16 cm, có lẽ, vào cỡ đĩa cổ lớn nhất ở VN hiện nay, đã có tuổi 200 năm. Hai cổ vật quý khác là hai chiếc chum sành đời Lê trên thân có ghi dòng chữ “Chiếc chum này được làm vào năm 1673 tặng cho Đinh Quang Kỷ” (một trong bốn vị quan lớn nhất dưới thời chúa Trịnh Tông, đã được chúa ưu ái tặng cho chiếc chum này). Thứ hai là bộ dụng cụ bằng đá từ thuở sơ khai của người Việt cổ.
Sau hơn mười năm đeo đuổi niềm say mê đồ cổ, nay chị chơi đồ cổ theo kiểu “khảo cổ học”: “Chỉ sưu tầm những gì thật sự quý hiếm, được làm thật kỳ công, số lượng không có nhiều hoặc phải có tên tuổi cụ thể, gắn với lịch sử, gắn với những giai đoạn, thời kỳ phát triển của cha ông”.
(Theo Tuổi Trẻ)