Nguyễn Ngọc Tư
Một bữa xe dừng ở ngã tư chợ, em rời khỏi cabin lau kính xe trong lúc anh Tìm Nội và ông Buồn bốc dỡ những thùng hàng. Chợ trưa đông ruồi, ít người. Thưa thớt vài người đàn ông để trần đánh bài, gần đó có mấy chị bỏ sạp tụm lại tỉa chân mày, nhổ tóc. Một người thanh niên dáng vẻ u ám, gầy nhom ghé lại, thì thầm:
- Em tưởng bỏ tôi dễ dàng như bỏ một con chó sao?
Và một chị gục xuống, trong âm thanh róng riết kinh hoàng. Máu chị phun ra thành vòi từ mũi dao xuyên qua ngực.
Em nghẹn đi trong nỗi ân hận, em đã nghe nhịp tim người đó, hơi thở người đó khi anh ta tiến lại gần. Em nghe trong anh ta đang sôi lên, máu ập vào tim như sóng, và trái tim đó như sắp bục ra. Em cảm giác được nhưng em không biết tên của những biểu hiện đó là Giết Chóc.
Rất nhiều thứ thuộc về con người mà em không biết. Như anh Tìm Nội khi từ nhà quay trở lại, nhịp thở trong anh rất khác, như hoang mang, như thắt thẻo, và trái tim đôi khi lay lắt, lúc lại bồn chồn. Em muốn hỏi đó là gì, nhưng rồi cứ nói kiểu - của - chim:
- bị lạ lắm.
Dự nạt:
- Biết chừng nào mới chịu ăn nói tử tế hả trời. Phải nói vầy nè, "lúc gần sáng mưa lớn quá".
Cái câu mà cô nói lúc Dự gọi cô dậy là "hồi chút xíu nữa là sáng mưa trôi lắm". Dự rầy rà suốt. Cậu ta thấy mình hạnh phúc khi rầy rà, cái cảm giác được che chở chăm sóc cho ai đó đã mất từ khi bà nội bỏ đi, giờ trở lại tràn đầy.
Và giờ thì Dự có nhiều thời gian cho việc đó. Chiếc Landu đã bị rã ra ở một tiệm sửa xe, gã muốn nó được sửa sang trước khi lên biên giới, với những con đường núi quanh co. Cô gái buộc phải rời cabin, sống như người, ngủ trong căn phòng kín bưng bốn phía.
Dự hay quanh quẩn chỗ cô gái, nằm dài trên sàn nhà, chỏng chân lên vách, cười tủm tỉm vì thấy mọi thứ gần giống một gia đình, ừ, chỉ thiếu bếp, và tiếng khóc của trẻ con... Cậu ta mong mấy ông thợ sửa xe càng lâu càng tốt.
Nhưng cái cảm giác dễ chịu đó không phải ai cũng có, những cái vách bọc quanh làm gã thấy khó ngủ. Đêm đêm, gã ngồi đu bên cửa sổ phòng trọ, lặng lẽ nghe Dự ngáy vang. Cái ý định trở lại những ngọn núi làm gã bồn chồn. Gã nhớ những con đường như kẽ chỉ bên bờ vực, chạy ngoằn ngoèo trên những triền núi đá vôi. Đôi tay người lái xe như múa. Gã nhớ tiếng còi xe cứ nấc lên theo từng dốc đá, loang mãi ra thành một vòng sóng buồn hiu mỏng dần lên đỉnh núi. Rồi chúng rơi từng chùm từng chùm nặng trĩu xuống đáy vực sâu nhói.
Hồi lái xe khách xuôi ngược cung đường đó, gã thích bấm còi xe, như những tiếng gọi chơi vơi. Gã không phải người gọi, mà cũng chẳng gọi bất cứ ai. Chỉ treo tiếng kêu vời vợi ở lơ lửng tầng trời. Ở đây một tiếng động nhỏ cũng được hồi đáp, hất một viên đá rơi xuống, tiếng đá lăn cũng tinh tang rất lâu. Nhiều khi dừng bên mé vực, gã cất tiếng kêu:
"Quyên ơi !" và đá núi vọng lại "ơi...ơi..." rợn ngợp.
Ở trong cái bệnh viện bì bõm nước rong, gã cũng gọi Quyên ơi hàng trăm lần, nhưng người đàn bà vẫn im phắt, trái tim ngưng lặng và cái bụng đã gò lên tròn tròn sau áo không còn chút xao động nào. Gã đã không ngủ suốt hai ngày đêm trước đó nhưng chỉ cần quay lưng lại, họ cũng bỏ đi. Chỉ còn lại những con đường.
Nỗi nhớ không cơn cớ, cứ gặm nhấm giấc ngủ. Khi sắp thiếp đi, bỗng nghe âm thanh của những bánh xe xé những vũng nước trên đường trong khi vút qua, và còn lại tiếng ì ì rất xa. Gã nhớ ra mình đã xa chiếc Landu hơn tuần.
Gã đốt nối thêm điếu thuốc. Cuối dãy là phòng cô gái, cô đang nôn, cái vách phòng trọ bằng ván ép mỏng tang làm cô quá gần với con người. Gã hình dung vẻ mặt xanh lướt và bất động của cô. Gã đẩy cửa bước vào.
Âm thanh của những cái cửa khép lại không bao giờ giống hệt nhau. Bởi nó không đơn giản chỉ là tiếng gỗ nghiến vào nhau, hay cú cọ sát của kim loại gỉ sét, mỗi cánh cửa khép là một ám ảnh.
Em nhớ cánh cổng nhà, hôm em khép lại và đi. Nó không một tiếng động, êm ái như một cú lướt. Nhưng em nghe tiếng thì thầm của chị Băng trong phòng hai đứa con mình.
- Con nhỏ đó thể nào cũng chết sớm. Tụi con buồn làm gì.
Dường như những đứa trẻ băn khoăn vì những món trang sức đắt tiền mà em đang treo trên người, và vài phút cha ghé qua lặng lẽ xoa đầu em mỗi khi ăn tối xong. Bàn tay cha rất mềm, có lần vì bận bắt tay với vài người quen mà ông để tay em trôi tuột trong một hội chợ đông người, và cuộc đi bắt đầu.
Giờ thì em tự xé tay mình khỏi tay cha, bằng một lần khép cửa.
Ở cái chòi trong rẫy gió Mai Lâm thì không có cửa, chỉ là một cái mành may bằng bao ximăng, cứng và sột soạt suốt đêm, không phân biệt được âm thanh đó do con Cò, gió hay của con người. Nó trơ khốc như nhau.
Rồi khi ông Buồn bước vào căn phòng trọ hẹp và ngộp thở, em bỗng phát hiện ra âm thanh cửa cũng liên quan nhiều tới bàn tay khép cửa. Nghe vẫn gọn ghẽ, nhẹ nhàng như khi ông dập cửa xe.
Ông lại gần em, bàn tay đặt lên cổ em làm ấm ran chỗ đó, rồi ngồi bệt ở cạnh giường, hút thuốc. Nhịp thở sâu và tối của ông rất gần làm khỏa đi khối hỗn độn của đôi người đang thề thốt, hẹn hò ở phòng bên. Mọi thứ đã lắng lại, và dần một êm đềm, em nhìn gương mặt lóe lên theo đốm lửa trên môi ông, cho đến khi mỏi mê, em gấp mình lại thành ba khúc, như trên chiếc Landu, và ngủ. Khi khép mắt vẫn là đốm lửa lập lòe.
Sáng sau em dậy rất trễ. Anh Tìm Nội không gọi.
Con đường chỉ dài chừng ba mươi bước chân. Đi hết quãng đó lại hiện ra con đường khác cũng ngắn ngủi. Sương vây bủa, mịt mù. Lâu lâu nghe tiếng xe máy chạy lướt qua, ma quái, chỉ nghe âm thanh rồi một khối đen xé sương lao tới, sau đó vẫn còn cảm giác lờ đờ quanh thắt lưng, nhưng sương đã phủ mất người.
Gã đi đằng trước dẫn đường, cái đèn pin trong tay loang loáng. Đoạn đèo từ đây lên đỉnh Puvan nhiều cua khúc khuỷu, thắt ngặt. Gã đã lái xe đi qua đoạn khó khăn nhất, giờ thì trao tay lái cho Dự. Gã nhớ con đường này, nhớ từng tảng đá, từng khúc quanh. Mười năm gã múa đôi tay mình trên tuyến đường này, dù sương cố tình lấp đi bằng cái áo đục ngàu của mình, gã vẫn nhận ra, dưới chân mình là mé vực. Gã huơ huơ đèn. Dự lờ đờ trôi theo.
Tay Dự tê cóng, vì lạnh và vì các búi cơ căng ra lần dò theo ánh đèn hiệu phía trước. Cậu ta thấy mệt mỏi rã rời. Không biết bao lâu thì mới ra khỏi sương mù, ra khỏi con đường rối bời này. Bên kia núi có mặt trời, có lửa hơ ấm lại người, có quán cơm với những thức ăn quen. Qua khỏi ải sương này, có ai đang đợi Dự?
Không ai cả. Bên kia núi, với Dự còn mịt mù hơn, óng ả một nỗi tuyệt vọng, không một bóng người. Bảy năm Dự cắm cúi đi trên đường vì tin có bà nội chờ mình ở đâu đó. Rồi bà nội mất, Dự có cô gái đưa tay vẫy đằng xa. Nhưng một sáng thức dậy Dự thấy ruột gan mình bị bứt lìa bởi người đàn ông đang vun vai khoan khoái bước ra khỏi phòng cô. Và những tối sau tiếng cửa khép mở cọt kẹt tiếp nối, Dự chong sự mất mát nghẹn ứ lên đỉnh đầu.
Cô sẽ không bao giờ ở trong ngày mai của Dự, dù vẫn ở bên Dự phút này, nằm thiu thiu. Trên người cô đắp tấm áo của gã đàn ông đang huơ đèn đi trước chừng mươi bước. Dự bỗng nghĩ, nếu mình cho xe lao vào anh ta, nếu mình lao vào như một tai nạn trong lúc mình không kiểm soát, trong lúc sương mù rình rập, trong cái lạnh cóng tay. Mình chỉ cần trôi nhanh hơn, và anh ta thì nằm xuống mãi mãi với những con đường, như anh ta đã nói, một chiều nào đi qua đám tang, Dự hỏi, tới hồi đại ca chết, đại ca chôn ở đâu? Anh ta thản nhiên, bên đường.
Dự mím môi, nếu xốc tới thật dài, bên kia núi biết đâu có người đang đợi.
Em nghe một đoạn âm thanh rất nhanh bên mình, và em kịp nhớ nó giống hệt của người thanh niên xoáy ngọn dao vào tim chị đàn bà giữa chợ. Lòng em cồn lên, và cơn đầy ứ bắt đầu tràn ngược lên cổ họng. Cách một khoảng sương, ông Buồn đang chậm rãi làm tín hiệu mở đường.
Ông không biết xe đang lao tới. Trong cơn nôn đắng đót, em ngã người giằng tay anh Tìm Nội và kiệt sức níu chiếc xe trôi nghiêng về phía mình, phía không ông, không ánh sáng. Thấy mình thực sự trôi, bồng bềnh và mộng mị trong một không gian tối dần, tối dần và rồi, bóng tối vô tận.
Trong đen thẳm, em nghe Tìm Nội nói, thật ra anh bây giờ đã là một con ma, "con nhỏ này... tôi chỉ định giỡn thôi mà...".
Và em, cũng là con ma, khóc nức nở. Từ đây vĩnh viễn ông Buồn không bao giờ nghe em cất tiếng, bằng kiểu của chuột, của chim, của những con bướm, con kiến, của những sợi nước dưới suối, của những cái lá trên cành... Nụ cười vĩnh viễn tắt trên môi ông, ý nghĩ đó vắt em ròng ròng như người ta vắt một chiếc áo ướt. Nghĩ thấy tức mình lắm, sao người ta có thể đem chuyện giết nhau làm trò đùa.
Sương khép dần, tự vá víu cái khoảng trống mà chiếc xe tải để lại trên khúc đường trơn ướt. Gã chết điếng bên bờ cỏ, mặt ướt đầm đìa. Gã đã không ngủ quên, không quay lưng lại, thậm chí không chớp mắt, cũng không sao ngăn lại một cuộc đi. Lần thứ ba gã bị bỏ lại với những con đường, chúng không bao giờ thảng thốt hỏi "Sao ông lại buồn?", chúng cũng không biết âu yếm ôm choàng vai gã để chia sẻ nỗi vui bất chợt.
Kẻ bị từ chối lần ra mép vực, trong cơn thèm muốn yêu thương người, trong nỗi mất mát tê dại, gã cất tiếng gọi chơi vơi rã rời trong gió lẻ, sương mù, đá và cây...
Nguyễn Ngọc Tư
(Trích Gió lẻ và chín câu chuyện khác, NXB Trẻ, 2008)