Theo khoản 1 Điều 9 Thông tư 16/2021/TT-BGTVT (được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư 02/2023/TT-BGTVT) của Bộ Giao thông vận tải, xe cơ giới thuộc trường hợp được miễn kiểm định lần đầu hoặc đã được kiểm định đạt yêu cầu được cấp Giấy chứng nhận kiểm định và Tem kiểm định theo mẫu quy định.
Giấy chứng nhận kiểm định, Tem kiểm định cấp cho xe cơ giới phải có cùng một số seri, được in từ chương trình quản lý kiểm định trên phôi do Cục Đăng kiểm Việt Nam thống nhất phát hành, có nội dung phù hợp với Hồ sơ phương tiện và dữ liệu trên chương trình quản lý kiểm định.
Về thời điểm, Giấy chứng nhận kiểm định và tem kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường được cấp đồng thời khi chủ phương tiện đưa xe đi đăng kiểm và có cùng thời hạn hiệu lực.
Về xử phạt hành chính, theo quy định tại khoản 5, 6 Điều 16 Nghị định 100/2019/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung tại khoản 9 Điều 2 Nghị định số 123/2021/NĐ-CP), điều khiển xe có Giấy chứng nhận hoặc tem kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường nhưng đã hết hạn sử dụng dưới một tháng sẽ bị phạt 3-4 triệu đồng; điều khiển xe không có Giấy chứng nhận hoặc tem kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường (đối với loại xe có quy định phải kiểm định, trừ xe đăng ký tạm thời) hoặc có nhưng đã hết hạn sử dụng từ 1 tháng trở lên sẽ bị phạt tiền 4-6 triệu đồng
Với các quy định nói trên, khi điều khiển ôtô có giấy chứng nhận kiểm định và Tem kiểm định nhưng đã hết hạn trên một tháng thì chỉ bị xử phạt về một lỗi là "điều khiển xe không có Giấy chứng nhận hoặc tem kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường (đối với loại xe có quy định phải kiểm định, trừ xe đăng ký tạm thời) hoặc có nhưng đã hết hạn sử dụng từ 1 tháng trở lên (kể cả rơ moóc và sơ mi rơ moóc)" chứ không bị xử phạt về hai hành vi riêng lẻ (1) điều khiển xe có giấy chứng nhận kiểm định nhưng đã hết hạn sử dụng trên 1 tháng và (2) điều khiển xe có tem kiểm định nhưng đã hết hạn sử dụng trên 1 tháng và đồng thời phải chịu 2 chế tài riêng lẻ.
Theo Điều 7 Luật Khiếu nại, khi có căn cứ cho rằng quyết định hành chính, hành vi hành chính là trái pháp luật, xâm phạm trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì người khiếu nại khiếu nại lần đầu đến người đã ra quyết định hành chính hoặc cơ quan có người có hành vi hành chính hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.
Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc quá thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khiếu nại lần hai đến Thủ trưởng cấp trên trực tiếp của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.
Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần hai hoặc hết thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.
Luật sư Vũ Tiến Vinh
Công ty luật Bảo An, Hà Nội