Trần Nhân Tông (1258-1308) là vua thứ ba triều Trần, con trưởng của Trần Thánh Tông, tên húy là Trần Khâm. Sách Đại Việt sử ký chép lại, vua sinh ra được "tinh anh thánh nhân, thuần túy đạo mạo, sắc thái như vàng, thể chất hoàn hảo, thần khí tươi sáng. Hai cung đều cho là lạ, gọi là Kim Tiên đồng tử. Trên vai trái có nốt ruồi đen, cho nên có thể cáng đáng được việc lớn". Vừa sinh ra, Trần Khâm đã được phong thái tử.
Năm 1279, ông được truyền ngôi, trở thành vua khi 21 tuổi. Thời gian Trần Nhân Tông làm vua, đất nước có nhiều biến cố, nổi bật nhất là 2 cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông (1285, 1288). Ngay những năm đầu cầm quyền, ông đã trực tiếp tham gia chỉ đạo cuộc kháng chiến. Trần Nhân Tông cùng Thượng hoàng mở hội nghị quân sự Bình Than, phân công tướng lĩnh đi đóng giữ những nơi hiểm yếu để chuẩn bị đánh chặn các mũi tiến công của địch. Ông lại cùng cha tổ chức hội nghị Diên Hồng nhất trí già trẻ một lòng quyết đánh giặc. "Chưa bao giờ tinh thần đánh giặc ở nước ta được phát triển mạnh như dưới thời vua Trần Nhân Tông", sách 54 vị hoàng đế Việt Nam viết.
Dưới sự lãnh đạo của 2 vua Trần (Nhân Tông và cha là Thánh Tông), cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông đã thắng lợi. Nhà Nguyên sau đó không lần nào dám xâm phạm bờ cõi nước Đại Việt.
Để ca ngợi công lao to lớn đó, Trương Hán Siêu đã làm bài thơ:
Vua Trần hai vị thánh quân,
Sông kia còn dấu tẩy trần giáp binh.
Ngàn xưa gẫm cuộc thăng bình,
Tại đâu đất hiểm, bởi mình đức cao.
Câu 2: Khi giao tranh với quân đội nhà Trần, một tướng thiện chiến nhà Nguyên là Toa Đô đã tử trận. Vua Trần Nhân Tông khi thấy thủ cấp của người này đã làm gì?