Lương Đắc Bằng (1472-1522) người làng Hội Triều, huyện Hoằng Hóa, phủ Hà Trung, trấn Thanh Hóa (nay là xã Hoằng Phong, Hoằng Hóa, Thanh Hóa). Ông là con của thầy đồ Lương Hay, từng đỗ giải nguyên ở kỳ thi Hương, mẹ là bà Lê Thị Sử dòng dõi khoa bảng.
Thuở nhỏ Lương Đắc Bằng có tên là Lương Ngạn Ích. Năm 12 tuổi, sau khi bố mất, ông theo học trạng nguyên Lương Thế Vinh rồi đỗ thủ khoa ở kỳ thi Hương năm 1495. Năm 27 tuổi, Lương Đắc Bằng thi Hội và được xếp vào "hạng ưu" trong danh danh 55 người trúng cách.
Đại Việt sử ký toàn thư ghi chép lại sự kiện này: "Ngày mồng 9, thi Điện. Đầu bài văn sách hỏi về nhân tài và vương chính... Cho Đỗ Lý Khiêm, Lương Đắc Bằng, Nguyễn Khắc Kiệm, ba người đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ... Mùa đông, tháng 10, ngày mồng 7, tuyên triệu bọn tiến sĩ Đỗ Lý Khiêm vào làm bài ứng chế, vua sai làm bài ký Ngũ vương tướng. Lương Đắc Bằng được hạng ưu...".
Theo Những người thầy trong sử Việt, do ngụ ý của hoàng hậu, danh vị trạng nguyên nên để cho Lý Khiêm vì người này đang giữ chức quan trọng trong triều đình, lại nhiều tuổi. "Ích vui vẻ nhường nhịn, do vậy ông chỉ là bảng nhãn. Vua Lê Hiến Tông rất đẹp lòng, đổi tên cho Ích thành Đắc Bằng và ông mang tên này từ đó. Vua còn ngự chế tặng hai vị tiến sĩ đệ nhất giáp hai bài thơ mừng", sách viết.
Bảng nhãn Lương Đắc Bằng sau đó được phong Hàn lâm học sĩ, bổ nhiệm chức Tả thị lang bộ lễ, Tả thị lang Bộ Lại, tước Đôn Trung Bá. Ông có nhiều đóng góp vào việc phát triển văn hóa, cất nhắc quan lại triều đình, được liệt vào hạng công thần.
Câu 2: Trong cuộc lật đổ bạo chúa Lê Uy Mục, Lương Đắc Bằng có đóng góp gì?
a. Viết bài hịch vạch tội bạo chúa và kêu gọi tinh thần đấu tranh của quân sĩ