Ngô Tất Tố trải qua nhiều công việc, nhưng chủ yếu là làm báo, viết văn và dịch sách. Nhà văn giỏi tiếng Hán và dịch được một số tác phẩm trước năm 1945 như Thơ và tình (dịch thơ Trung Quốc, 1940), Đường thi (sưu tầm, chọn và dịch, 1940).
Sau Cách mạng tháng tám 1945, Ngô Tất Tố tham gia Ủy ban giải phóng ở quê, sau đó gia nhập Hội văn hóa cứu quốc và lên Việt Bắc tham gia kháng chiến chống Pháp.
Ngoài các công việc của đoàn, hội, Ngô Tất Tố dường như chuyển hẳn sang công việc biên soạn và dịch sách, với khối lượng đồ sộ như: Suối thép (dịch tiểu thuyết, 1946), Trước lửa chiến đấu (dịch truyện vừa, 1946), Trời hửng (dịch truyện ngắn, 1946), Duyên máu (dịch truyện ngắn, 1946), Doãn Thanh Xuân (dịch truyện ngắn, 1946-1954)...
Ngô Tất Tố còn biên khảo, viết kịch bản sân khấu, khảo cứu thơ văn với Địa dư các nước châu Âu (biên soạn chung với Văn Tân, 1948), Địa dư các nước châu Á, châu Phi (biên soạn chung với Văn Tân, 1949), Địa dư Việt Nam (biên soạn, 1951), Kinh dịch (chú giải, 1953), Nữ chiến sĩ Bùi Thị Phác (kịch bản chèo, 1951), Đóng góp (kịch, 1951).
Trong tác phẩm Nhà văn hiện đại, nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan đánh giá Ngô Tất Tố: "Ông vào số những nhà Hán học đã chịu ảnh hưởng văn học Âu Tây và được người ta kể vào hạng nhà nho có óc phê bình, có trí xét đoán, có tư tưởng mới".
Ngô Tất Tố được xem là đại diện tiêu biểu cho lớp trí thức giai đoạn giao thời có những đổi thay táo bạo, dung hòa giữa nền văn hóa Việt Nam phong kiến thủ cựu và nền văn hóa Việt Nam theo lối tân thời của phương Tây.