Nhiều tư liệu cho thấy, truyện thơ Lục Vân Tiên được Nguyễn Đình Chiểu viết năm 1851, khi ông bắt đầu sáng tác văn thơ, sau khi bị cảnh mù lòa, mẹ mất.
Số phận chàng Lục Vân Tiên có những điểm tương đồng với đồ Chiểu như: bỏ dở thi cử về quê chịu tang mẹ rồi bị bệnh và mù hai mắt. Vân Tiên sau đó còn bị sĩ tử đố kỵ với tài năng và gia đình đã hứa gả con gái cho ông hãm hại, hết đẩy xuống sông lại bỏ một mình vào hang sâu trong rừng.
Tại rừng sâu, Lục Vân Tiên may mắn được sĩ tử Hớn Minh cứu giúp, được tiên cho thuốc nên mắt lại sáng. Đến khoa thi, Lục Vân Tiên đỗ trạng nguyên, được nhà vua cử đi dẹp giặc Ô Qua. Trên đường thắng giặc trở về, chàng gặp lại Kiều Nguyệt Nga - người từng được Vân Tiên cứu giúp và nguyện gắn bó suốt đời. Trở về kinh sư, Vân Tiên tâu hết sự tình với nhà vua, kẻ gian ác bị trừng trị, người nhân nghĩa được đền đáp, Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga hạnh phúc sum vầy.
"Đây là một bản trường ca ca ngợi chính nghĩa, những đạo đức đáng quý trọng ở đời, ca ngợi những người trung nghĩa", cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng nhận xét về tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu.
Truyện thơ Lục Vân Tiên đã có ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều tầng lớp nhân dân và được lưu truyền dưới hình thức sinh hoạt văn hóa như "kể thơ", "nói thơ Vân Tiên", "hát Vân Tiên". Cho đến nay, tác phẩm vẫn giữ nguyên giá trị trong nền văn học Việt Nam. Lục Vân Tiên được chuyển thể thành phim, chèo, cải lương.
Ngoài Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu còn nhiều tác phẩm nổi tiếng khác như: Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, bài thơ Chạy giặc, Tan chợ.
Câu 4: Nguyễn Đình Chiểu sáng tác thơ bằng ngôn ngữ gì?