Đến năm 2014, Việt Nam có 40 năm với 38 lần tham dự Olympic Toán quốc tế (IMO) và luôn ở vị trí top ten. Huy chương vàng IMO đầu tiên của Việt Nam thuộc về Hoàng Lê Minh (học sinh lớp 10, khối chuyên toán A0 của ĐH Tổng hợp). Hai huy chương vàng tiếp theo của Việt Nam là Lê Bá Khánh Trình (trường Quốc học Huế) và Lê Tự Quốc Thắng (trường THPT chuyên Lê Hồng Phong, TP HCM). Điều thú vị là cả ba thí sinh này đều là người gốc Huế.
Thí sinh đầu tiên đạt điểm tối đa và cũng là duy nhất của Việt Nam tính đến nay đạt giải đặc biệt về lời giải đẹp là Lê Bá Khánh Trình. Anh đạt điểm tối đa 40/40 tại IMO 1979 tại London (Anh) và được trao giải đặc biệt về lời giải bài toán hình học ngắn hơn đáp án và chỉ bằng kiến thức lớp 9.
Trần Trọng Hùng và Phan Phương Đạt là hai thí sinh đầu tiên của Việt Nam tham dự hai kỳ IMO liên tiếp (cùng vào 2 năm 1987 và 1988). Trần Trọng Hùng đạt 2 huy chương bạc, còn Phan Phương Đạt đạt 1 bạc, 1 đồng.
Phan Vũ Diễm Hằng là nữ thí sinh đầu tiên của Việt Nam. Chị tham dự IMO 1975 và đạt huy chương đồng. Tính đến IMO 2014, Việt Nam có 10 nữ thí sinh tham dự IMO, dành được tổng cộng 10 huy chương, trong đó có 5 huy chương bạc, 5 huy chương đồng. Nguyễn Thị Thiều Hoa là nữ thí sinh đầu tiên của Việt Nam đạt huy chương bạc IMO. Chị đạt thành tích này tại IMO 1976.
Nguyễn Tiến Dũng là thí sinh Việt Nam nhỏ tuổi nhất tham dự IMO. Anh tham dự IMO 1985 khi chưa tròn 15 tuổi và đạt huy chương vàng với số điểm 35/42.
Hà Huy Minh (Huy chương đồng IMO 1989) và Hà Huy Tài (huy chương bạc IMO 1991) là cặp anh em con chú con bác duy nhất từng tham dự IMO. Trong gia đình này còn có người chú Hà Huy Bảng từng tham dự IMO 1976 (nhưng không đạt giải). Theo GS Hà Huy Khoái, chính vì cần dạy cho các con cháu nên giáo sư đã để tâm hơn đến toán sơ cấp để sau này trở thành chuyên gia có tiếng trong đào tạo, bồi dưỡng học sinh giỏi, từng làm Trưởng ban chọn đề thi và Trưởng ban giám khảo IMO 2007, tham gia IMO Advisory Board và nhiều lần dẫn đoàn Việt Nam đi thi toán quốc tế.
Có một trường hợp họ hàng ít được biết đến hơn là của Trần Nam Dũng (cậu), huy chương bạc IMO 1983 và Lê Nam Trường (cháu), huy chương bạc IMO 2006. Điều thú vị là chiếc huy chương bạc của Trần Nam Dũng là huy chương IMO đầu tiên của Quảng Nam - Đà Nẵng, còn huy chương bạc của Lê Nam Trường là huy chương IMO đầu tiên của Hà Tĩnh (là quê nội của Lê Nam Trường và quê ngoại của Trần Nam Dũng).
Có hai thí sinh Việt Nam dự IMO không học trong hệ thống các trường chuyên là Chế Quang Quyền, bằng danh dự IMO 1985 (học sinh trường THPT Long Thành, Đồng Nai) và Võ Văn Huy, huy chương đồng IMO 2011 (học sinh trường THPT Lê Hồng Phong, huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên).
Các trung tâm đào tạo huy chương IMO ở Việt Nam
Xét trên cơ sở các trường đã đào tạo ra huy chương IMO thì nhà vô địch tuyệt đối là khối chuyên toán A0 thuộc ĐH Tổng hợp Hà Nội, sau này là THPT chuyên Khoa học Tự nhiên (ĐH Quốc gia Hà Nội). Riêng đơn vị này đã đóng góp 73 lượt thí sinh tham dự IMO, chiếm gần 1/3. Á quân thuộc về khối chuyên toán ĐH Sư phạm, nay là THPT chuyên ĐH Sư phạm Hà Nội với 40 suất. Vị trí thứ ba thuộc về THPT chuyên Lam Sơn (Thanh Hóa) với 14 suất tham dự.
Theo dòng thời gian thì ở ba kỳ IMO đầu tiên mà Việt Nam tham gia (1974, 1975, 1976), các suất dự IMO hoàn toàn thuộc về 3 trung tâm đào tạo chuyên toán tại Hà Nội là khối chuyên toán trường ĐH Tổng hợp, khối chuyên toán trường ĐH Sư phạm và trường THPT Chu Văn An.
Đến năm 1978, xuất hiện 3 thí sinh đến từ các đơn vị ngoài Hà Nội, đó là Lê Như Dương, đến từ trường Thái Phiên (Hải Phòng), Nguyễn Tuấn Hùng chuyên toán ĐH Vinh và Hồ Đình Duẩn đến từ trường Quốc học Huế. Cả ba anh đều đạt huy chương đồng tại kỳ thi năm đó.
Hồ Đình Duẩn là thí sinh miền Nam đầu tiên được tham dự IMO (lúc bấy giờ kỳ thi chọn đội tuyển được tổ chức ở 2 nơi: miền Bắc thi ở Hà Nội, miền Nam và Trung thi ở TP HCM). Anh cũng mở đầu cho loạt thành công của chuyên toán quốc học Huế với Hồ Đình Duẩn (huy chương đồng IMO 1978), Lê Bá Khánh Trình (huy chương vàng IMO 1979), Ngô Phú Thanh (huy chương bạc IMO 1982), Nguyễn Văn Lượng (huy chương bạc IMO 1983), Hoàng Ngọc Chiến (huy chương đồng IMO 1983). Những thành công này gắn liền với 3 thầy giáo nổi tiếng là Trần Văn Khải, Trần Thanh Thiên và Lê Văn Quang. Sau năm 1983, dòng thành công này đã dừng lại. Ít lâu sau, thầy Trần Văn Khải ra Hà Nội và thầy Trần Thanh Thiên vào Đồng Nai.
Dòng thành công của Quốc học Huế dừng lại thì lại đến dòng thành công của một tên tuổi mới, rất trẻ, đó là khối chuyên của Bộ đặt tại trường THPT chuyên Phan Chu Trinh (Đà Nẵng). Đó là Trần Nam Dũng (huy chương bạc IMO 1983), Nguyễn Văn Hưng (huy chương bạc IMO 1984), Võ Thu Tùng (huy chương đồng IMO 1984), Lâm Tùng Giang (huy chương bạc IMO 1985) và Nguyễn Hùng Sơn (huy chương bạc IMO 1986). Thành tích này gắn liền với các thầy giáo Lê Hoành Phò, Hồ Xuyên, Ngô Thế Phiệt. Nhưng sau năm 1986, khi trường THPT chuyên Lê Quý Đôn được thành lập trên cơ sở các lớp chuyên đầu tiên này thì dòng thành tích IMO của Đà Nẵng tạm dừng.
Đến năm 1984 thì chuyên Lam Sơn Thanh Hóa đã có thành tích IMO đầu tiên với chiếc huy chương đồng của Nguyễn Thúc Anh. Chuyên Lam Sơn Thanh Hóa cùng với chuyên ĐH Vinh không có những chuỗi thành tích ấn tượng như Huế và Đà Nẵng, nhưng vẫn luôn giữ được nhịp qua các năm. Các thành tích IMO của Lam Sơn Thanh Hóa gắn liền với thầy Phạm Ngọc Quang.
Năm 1985 là năm duy nhất mà số thí sinh đến từ phía Nam (được tính từ Đà Nẵng trở vào) chiếm quá bán trong thành phần đội tuyển IMO. Năm này trường Nguyễn Văn Trỗi Nha Trang, Khánh Hòa (sau thành trường chuyên Lê Quý Đôn Khánh Hòa) có hai đại diện trong đội tuyển là Huỳnh Văn Thành (Huy chương bạc) và Đỗ Duy Khanh (Huy chương đồng). Thành tích này gắn liền với hai cái tên Huỳnh Xưng và Lê Sáng, những người sau này còn đóng góp cho Khánh Hòa một huy chương bạc toán quốc tế của Nguyễn Tiến Việt (IMO 2003).
Những năm tiếp theo, trường THPT chuyên Amsterdam bắt đầu lên tiếng. Khởi đầu từ hai chiếc huy chương đồng IMO của Phan Phương Đạt và Phạm Triều Dương ở IMO 1987, đến hai chiếc huy chương bạc của Phan Phương Đạt và Hồ Thanh Tùng ở IMO 1988 rồi huy chương đồng của Phan Thị Hà Dương ở IMO 1990.
Trong cả giai đoạn này, hai trung tâm chính là THPT chuyên ĐH Khoa học tự nhiên (ĐH Quốc gia Hà Nội) và THPT chuyên ĐH Sư phạm Hà Nội, dĩ nhiên vẫn đều đặn góp mặt. Tuy nhiên, từ năm 1991 đến 2000 là giai đoạn bùng nổ nhất của khối chuyên toán A0. Kỷ lục được xác lập vào năm 1994 khi khối chuyên toán A0 ĐH Tổng hợp Hà Nội chiếm 5/6 xuất dự thi IMO, xuất còn lại thuộc về ĐH Sư phạm Hà Nội. Các năm 1992, 1995, 1996, 2000 khối này chiếm 4/6 xuất. Đây cũng là thời kỳ của những tên tuổi như Nguyễn Chu Gia Vượng, Đào Hải Long, Ngô Đắc Tuấn, Đỗ Quốc Anh.
Trong giai đoạn này, các tỉnh thành phía Nam gần như vắng bóng, chỉ có đến năm 1999, Trần Văn Nghĩa, học trò của thầy giáo Hoàng Hoa Trại (nay đã mất) ở trường chuyên Lê Khiết mới giúp miền Nam lên tiếng trở lại.
Bước sang thế kỷ 21, địa lý của các huy chương IMO bắt đầu trải rộng hơn với sự lên tiếng của các trung tâm mới nổi: Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Hải Dương. Một số tỉnh cũng đã có những chiếc huy chương toán quốc tế đầu tiên như: Hà Tĩnh, Quảng Bình, Bắc Giang, Bắc Ninh. Giai đoạn này đánh dấu sự trở lại ngoạn mục của một tên tuổi mới mà cũ như: THPT chuyên Lê Quý Đôn (Đà Nẵng). Từ năm 2005 đến năm 2014, Đà Nẵng đã có 5 chiếc huy chương toán quốc tế (3 bạc, 2 đồng), bằng với thành tích của lớp đàn anh giai đoạn 1983-1986.
Đặc biệt giai đoạn này đánh dấu sự góp mặt của một tên tuổi mới là trường Phổ thông năng khiếu thuộc ĐH Quốc gia TP HCM. Bắt đầu dự thi học sinh giỏi vào năm 1995, nhưng phải đến năm 2003, phổ thông năng khiếu mới có thành tích IMO đầu tiên với chiếc huy chương bạc của Nguyễn Đăng Khoa. Những năm sau đó, Phổ thông năng khiếu vẫn dè dặt năm có, năm không và tiếp tục đạt thêm 4 chiếc huy chương IMO nữa vào các năm 2005 (Trần Chiêu Minh, Huy chương bạc), 2008 (Đặng Trần Tiến Vinh, Huy chương đồng), 2009 (Phạm Hy Hiếu, Huy chương bạc), 2012 (Trần Hoàng Bảo Linh, Huy chương bạc). Và đến năm 2013, 2014 thì Phổ thông năng khiếu đã tỏa sáng với 3 chiếc huy chương vàng (Cấn Trần Thành Trung, Phạm Tuấn Huy - 2 năm liên tiếp) và 1 chiếc huy chương bạc (Hồ Quốc Đăng Hưng).
Như vậy, khởi đầu từ các lớp chuyên thuộc các ĐH Tổng hợp Hà Nội, ĐH Sư phạm Hà Nội, ĐH Sư phạm Vinh, đến nay hệ thống trường chuyên đã hình thành rộng khắp cả nước và ở các trường đại học lớn. Và cũng từ đó, bản đồ các đơn vị có đóng góp cho thành tích thi toán quốc tế cũng được trải đều rộng khắp Việt Nam.
Trần Nam Dũng
ĐH Khoa học Tự nhiên, ĐH Quốc gia TP HCM