Đạo diễn Đặng Nhật Minh. |
Để kỷ niệm 100 năm ngày điện ảnh ra đời (1895-1995), Đài truyền hình NHK Nhật Bản mời 5 đạo diễn của 5 nước châu Á làm phim (gồm Ấn Độ, Thái Lan, Mông Cổ, Iran và Việt Nam) với mục đích đến cuối năm 1995 sẽ chiếu tại Tokyo trong Liên hoan phim châu Á lần thứ I của NHK.
Sau khi theo dõi công việc của tôi với 3 phim Bao giờ cho đến tháng Mười, Cô gái trên sông, và Trở về, đầu năm 1995, Đài NHK quyết định mời tôi làm phim với gợi ý: "Ông hãy chuẩn bị một kịch bản mà ông thích, về những vấn đề mà ông thực sự quan tâm" (ở trong nước tôi chưa bao giờ được nghe ai nói như vậy). Đây là lần đầu tiên tôi được toàn quyền quyết định mọi vấn đề chi tiêu. Chủ nhiệm Tất Bình xác định: "Đây là phim của ông, người ta tài trợ cho ông. Ông quyết thế nào, tôi chi như thế, miễn làm sao phim thật hay, không thì bẽ mặt với thiên hạ". Cả đoàn làm phim đều nhận thức rằng, việc làm phim này là một thách thức lớn đối với danh dự của điện ảnh Việt Nam, bởi vì cùng lúc đầu tư cho chúng tôi làm phim, Đài NHK còn đầu tư cho bốn đạo diễn của bốn nước châu Á khác. Phải làm sao phim Việt Nam không thua kém phim các nước đó. Trách nhiệm nặng nề này chúng tôi tự nhận lấy cho mình, chẳng có ai giao phó, động viên. Tôi cảm tưởng như mình là đội trưởng một đội bóng đá đi thi đấu trong khu vực.
Việc tìm kịch bản không mất thời giờ vì tôi đã có sẵn trong tay kịch bản Thương nhớ đồng quê, dựa theo truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp. Thoạt tiên tôi thấy ở truyện ngắn này một khung gian điện ảnh đầy gợi cảm. Các nhân vật chỉ được phác họa vài nét về tính cách, còn thoại thì hầu như không có. Tất cả chỉ là những lời kể ngắn gọn của nhân vật Nhâm, một thanh niên vừa mới lớn. Tôi cẩn thận mời tác giả văn học lại nhà trình bày ý định về mối quan hệ giữa ba nhân vật Quyên, Nhâm, Ngữ để tạo ra cái lõi kịch tính của bộ phim. Trong truyện ngắn không có mối quan hệ tay ba này, nhưng tôi thấy nó rất cần thiết. Nhâm sống với chị Ngữ trong một nhà, nhưng cậu không biết rằng cậu là chỗ dựa tình cảm duy nhất đối với chị Ngữ trong những ngày sống cô độc xa chồng. Chỉ khi xuất hiện Quyên, cô gái Việt kiều di tản trở về và Nhâm bị hút hồn vào người phụ nữ đó thì những tình cảm thầm kín bên trong của người chị dâu mới trỗi dậy. Đến lúc này Nhâm mới hiểu được hết nỗi cô đơn của chị dâu mình, cậu cảm thấy xúc động trước những tình cảm của chị Ngữ dành cho cậu. Một thứ tình cảm hơn cả tình chị em đã xuất hiện giữa hai người. Khi tôi vẽ ra trên giấy sơ đồ tay ba của mối quan hệ đó thì Thiệp thốt lên: "Ông thắng rồi. Bộ phim nhất định thành". Thiệp cũng gợi ý cho tôi nên kết hợp thêm truyện ngắn Những bài học nông thôn. Tôi nhất trí.
Quan trọng nhất là tìm người cho vai chính của phim, vai Nhâm, một thanh niên nông thôn vừa mới lớn (17 tuổi) tâm hồn lại nhạy cảm, thích làm thơ. Tôi cùng trợ lý đạo diễn Nhuệ Giang đi khắp các trường nghệ thuật nhưng không tìm ra được gương mặt nào thích hợp. Cuối cùng tôi dừng lại ở Tạ Ngọc Bảo, một học sinh đang theo học lớp đào tạo của đoàn chèo Hà nội. Bảo thực sự là một thanh niên nông thôn, quê ở Thường Tín. Mặc dù cô giáo chủ nhiệm cho biết học lực của Bảo kém, nhưng tôi vẫn quyết định chọn, hy vọng trước ống kính điện ảnh, khác với trên sân khấu chèo, nếu tập tành kỹ lưỡng chắc Bảo sẽ đóng được. Và Bảo đã hoàn thành xuất sắc vai diễn đầu tiên trong điện ảnh.
Khó khăn nhất trong việc tìm diễn viên lại là vai chị Ngữ. Đến phút chót rồi tôi vẫn không ưng ý một ai. Nhuệ Giang đành yêu cầu tôi xuống Bắc Ninh trực tiếp gặp Thuý Hường, ca sĩ của Đoàn quan họ Bắc Ninh. Phút đầu tiên gặp Thuý Hường, tôi thất vọng hoàn toàn. Cô đánh phấn son loè loẹt, mặc bộ đồ bộ mầu xanh nõn chuối, trông chẳng có dáng dấp gì một phụ nữ nông thôn. Nhưng đã cất công xuống đây nên tôi cũng đề nghị Tuấn chụp vài kiểu ảnh. Tôi yêu cầu Thuý Hường tẩy hết son phấn, mặc chiếc áo nâu và quần đen do Giang đem theo sẵn. Khi cô thay quần áo xong, bước ra, tôi và Tuấn sững sờ, cô trở nên khác hẳn. Sau khi nhìn vào viseur của máy ảnh Tuấn thốt lên: "Chị Ngữ đây rồi". Đến khi về Hà Nội rửa ảnh thì tất cả mọi người đều công nhận không ai có thể vào vai chị Ngữ hơn Thuý Hường được. Bản thân cô sinh trưởng ở nông thôn, mọi công việc đồng áng quen thuộc từ nhỏ. Chưa một lần lên phim nhưng vốn là một ca sĩ, tôi tin cô sẽ không bỡ ngỡ khi bước sang điện ảnh. Và Thuý Hường đã chinh phục được người xem bằng diễn xuất chân thật và tinh tế của mình. Chị Ngữ của cô toát lên một vẻ đẹp mộc mạc và quyến rũ lạ thường. Vai nữ Việt kiều tôi mời Lê Vân. Cô lúc này không còn là Lê Vân của thời đóng Bao giờ cho đến tháng Mười nữa. Cô đã là một diễn viên có hạng, muốn sửa vai Quyên trở thành nhân vật trung tâm của phim, nhưng tôi không đồng ý. Chính vì không nhận thức rõ nhân vật của mình trong tổng thể chung của cả bộ phim nên vai diễn của cô không đạt bằng các vai Nhâm và chị Ngữ.
Phim được khởi quay vào đúng giữa mùa hè oi ả năm 1995. Đoàn được làm việc với những phương tiện kỹ thuật tốt nhất. Điều kiện sinh hoạt và lương cho anh em trong đoàn phim được đảm bảo tối đa, nên dù công việc vất vả, đầy những sự cố bất ngờ, tiến độ của phim vẫn tiến triển đều đặn. Phải nói rằng một đội ngũ thiện chiến nhất của điện ảnh Việt Nam trong mọi lĩnh vực chuyên môn đã được huy động cho phim này. Chủ nhiệm Tất Bình là người có khả năng tổ chức tuyệt vời. Mỗi lần quay xong một đợt chừng 1.500 đến 2.000, thước phim chúng tôi lại gửi sang Nhật để in tráng, và chỉ một tuần sau chúng tôi đã nhận được mẻ nháp gửi về kèm theo một bức thư dài với những nhận xét tỉ mỉ về chất lượng kỹ thuật của hình ảnh. Nhà quay phim Nguyễn Hữu Tuấn cùng anh em trong tổ quay truyền tay nhau đọc, vừa đọc vừa đoán những từ kỹ thuật viết bằng tiếng Anh. Cuối cùng rồi mọi người cũng hiểu hết nội dung để rút kinh nghiệm cho các đợt quay sau. Tôi đã học được rất nhiều điều qua những bức thư ấy, dù chúng chỉ liên quan đến phần kỹ thuật quay phim.
Đoàn chúng tôi hồi hộp đến Hãng Imagica chờ xem bộ phim ra lò. Cùng xem với chúng tôi có đông đủ các chuyên viên kỹ thuật của hãng, đại diện NHK, Đại sứ Việt Nam tại Nhật Nguyễn Tâm Chiến, tùy viên văn hoá cùng một số khách mời Nhật Bản. Tôi nín thở theo dõi như theo dõi đứa con mình ra đời. (Hai lần tôi đưa vợ đi đẻ nhưng chưa bao giờ được sống cái phút hồi hộp này. Cả hai con tôi đều sinh vào lúc nửa đêm, khi tôi đang ngủ ở nhà). Khi đèn bật sáng, tôi nhận thấy nét hân hoan trên gương mặt của tất cả mọi người. Đại sứ Nguyễn Tâm Chiến không giấu nổi xúc động: "Tôi là một nông dân, tôi từ nông thôn mà ra. Cái cậu Nhâm trong phim đúng như tôi hồi còn ở làng, mà cả cái làng trong phim nữa đúng hệt như làng tôi. Xin chúc mừng anh". Đấy là lời khen ngợi đầu tiên của người đại diện cao nhất của nhà nước Việt Nam trên đất Nhật Bản (sau này giới ngoại giao là giới ủng hộ bộ phim này mạnh mẽ nhất). Ông Chủ tịch hội Nhật-Việt ở Tokyo, trước kia từng là Đại sứ Nhật tại Pháp đã bắt tay tôi nói bằng tiếng Pháp: "Grand succès!" ("Thành công lớn!"). Một chuyên viên của Hãng Imagica tâm sự với tôi: "Thú thật với anh, khi theo dõi từ các mẻ nháp đầu tiên cho đến các mẻ nháp cuối cùng, tôi vẫn không hình dung được bộ phim sẽ như thế nào. Nhưng hôm nay xem xong phim tôi muốn nói với anh rằng một khi nghệ thuật làm từ trái tim thì nó không còn biên giới nữa. Không hiểu sao tôi cảm thấy gần gũi với những con người trên phim đến thế. Họ thân thuộc đến nỗi tôi cứ nghĩ như họ đang sống ở một làng quê nào đó ở Nhật Bản".
Đặng Nhật Minh
(Theo Sông Hương)