Tình trạng khan hiếm nước sạch tại nhiều vùng nông thôn, đặc biệt ở khu vực hạn mặn và miền núi cao, đang đặt ra yêu cầu cấp bách về các mô hình cấp nước bền vững, chi phí thấp và dễ vận hành. Những sáng kiến công nghệ lọc nước phù hợp điều kiện địa phương được xem là hướng đi khả thi nhằm giúp người dân tiếp cận nguồn nước an toàn mà không phụ thuộc vào hạ tầng tập trung vốn còn nhiều hạn chế.
Người dân xếp hàng lấy nước sinh hoạt. Ảnh: Oanh Nguyễn
Tại các tỉnh đồng bằng ven biển như Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, xâm nhập mặn tăng mạnh trong mùa khô khiến nguồn nước mặt bị suy giảm nghiêm trọng. Trong khi đó, những xã vùng cao ở Hà Giang, Sơn La, Gia Lai lại đối mặt với thiếu nước quanh năm do địa hình chia cắt và lượng mưa thấp. Việc triển khai các công nghệ xử lý nước quy mô lớn thường gặp khó vì chi phí đầu tư cao, yêu cầu kỹ thuật phức tạp và khó duy tu tại chỗ. Bởi vậy, các giải pháp lọc nước đơn giản, tiết kiệm và vận hành bằng năng lượng tái tạo đang được ưu tiên thử nghiệm.
Một trong những mô hình phổ biến hiện nay là hệ thống lọc nước màng thẩm thấu (RO) kết hợp năng lượng mặt trời. Thiết kế gồm cụm tấm pin cung cấp điện cho bơm và cụm lọc, giúp máy hoạt động độc lập ngay cả ở những nơi chưa có lưới điện ổn định. Điểm mạnh nằm ở khả năng lọc được cả nước mặn và nước lợ với độ mặn đến 5‰, phù hợp cho các ấp ven biển thường xuyên bị xâm nhập mặn. Công suất từ 300 đến 1.000 lít một giờ đủ cung cấp nước sinh hoạt cho cụm dân cư 20 - 50 hộ. Do sử dụng năng lượng tái tạo, chi phí vận hành thấp, chủ yếu là thay lõi định kỳ.
Bên cạnh đó, giải pháp lọc nước bằng bể sinh học đa tầng (biosand filter) cũng được nhiều địa phương miền núi áp dụng vì cấu tạo đơn giản, dễ thi công tại chỗ. Bể gồm nhiều lớp cát, sỏi và lớp vi sinh tự nhiên có khả năng loại bỏ tạp chất, vi khuẩn, ký sinh trùng ngay trong quá trình nước thẩm thấu xuống đáy bể. Công nghệ này không cần điện, không dùng hóa chất, phù hợp hộ gia đình hoặc nhóm hộ sinh sống phân tán. Chi phí vật liệu chỉ vài trăm nghìn đến hơn một triệu đồng, dễ tiếp cận với hộ nghèo.
Một sáng kiến khác đang được thử nghiệm tại một số tỉnh Nam Trung Bộ là thiết bị lọc nước di động tích hợp màng UF và bộ khử trùng UV. Thiết kế dạng vali hoặc thùng nhỏ gọn, trọng lượng khoảng 10 - 15 kg, có thể đặt ngay bên bờ suối, kênh rạch để xử lý nước tại chỗ. Thiết bị phù hợp cho vùng cao, nơi người dân phải đi xa để lấy nước. Dòng máy di động này cho ra nước đạt quy chuẩn vệ sinh, công suất 50 - 100 lít/giờ, đủ phục vụ nhu cầu uống và nấu ăn của gia đình 4 - 6 người. Điểm mạnh là khả năng dễ mang theo, lắp đặt nhanh, hữu ích trong mùa mưa lũ khi nước mặt bị ô nhiễm.
Đối với khu vực hạn và khan hiếm nước, các tổ chức phi chính phủ cũng đưa vào thử nghiệm mô hình chưng cất nước bằng năng lượng mặt trời (solar still). Thiết bị sử dụng ánh nắng để làm bốc hơi nước bẩn, sau đó ngưng tụ lại thành nước sạch, loại bỏ muối và vi sinh. Công suất không lớn nhưng bền bỉ, không tốn nhiên liệu, phù hợp điều kiện nắng nóng kéo dài tại Nam Trung Bộ. Khi kết hợp nhiều mô-đun theo cụm, mô hình này có thể đáp ứng đủ nước uống cho trường học hoặc trạm y tế.
Ngoài công nghệ, yếu tố quan trọng là khả năng vận hành và bảo trì của cộng đồng. Nhiều chuyên gia cho rằng các mô hình nước sạch thành công thường gắn liền với huấn luyện kỹ thuật cho người dân địa phương, hỗ trợ vật tư thay thế và cơ chế theo dõi chất lượng nước định kỳ. Các sáng kiến như thiết lập "tổ nước sạch cộng đồng", đào tạo kỹ năng kiểm tra chất lượng nguồn nước, hay thu phí vận hành ở mức phù hợp đang giúp các hệ thống hoạt động ổn định và bền vững hơn.
Bài toán môi trường cũng được đặt ra khi nhiều vùng nông thôn phát sinh lượng lớn chai nhựa, can đựng nước dùng một lần. Vì vậy, các mô hình xử lý nước tại chỗ không chỉ giúp giảm chi phí mà còn hạn chế rác thải nhựa, phù hợp định hướng phát triển xanh. Những công nghệ mới sử dụng vật liệu bền, tái chế hoặc không hóa chất như biosand filter, màng lọc sinh học hay năng lượng mặt trời được đánh giá cao về tính bền vững.
(Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Môi trường)