Các thầy dạy tôi rằng, bác sĩ là để cứu giúp người bệnh chứ không phải để kiếm tiền. Đó là thứ đạo đức cao quý, cao quý đến mức nó trở thành mô hình; tuy nhiên, tôi vẫn có những nhận thức rất rõ ràng về sự quay cuồng trong cuộc sống của từng bác sĩ.
Nghề y, hơn bất kì ngành nghề nào khác, bác sĩ đòi hỏi phải có tính khiêm nhường trong cuộc sống và chuyên nghiệp trong chuyên môn. Những năm đầu thập kỷ 90, khi tôi bắt đầu thực tập ở các bệnh viện, hầu hết bác sĩ phải làm việc quá sức, nhưng tiền lương nhận được chỉ khoảng 4 đến 6 đô la mỗi tháng. Năm 1991, lương khởi điểm bác sĩ hết tập sự khoảng 62.000 đồng, có thâm niên nhiều năm khoảng 100.000 đồng, trong khi tỉ giá 16.000 VND/USD.
Đời sống quá khó khăn, nên mỗi ngày đến bệnh viện tôi lại nhìn thấy có nhiều bệnh nhân phải bỏ tiền ra mua quà cho nhân viên y tế. Món quà phổ biến nhất thời đó là bao thuốc lá 555 hoặc chiếc khăn mùi xoa, họ biếu bác sĩ để được ưu tiên khám trước, biếu y tá để được quan tâm chăm sóc. Bao thuốc hay chiếc khăn mùi xoa sẽ được mang ngay ra cổng viện bán lại.
Mô hình của hệ thống y tế mang tư tưởng XHCN, tôi tạm gọi như thế, là mô hình đề cao khả năng tiếp cận chăm sóc sức khỏe như là quyền cơ bản của công dân, nó tập trung cho cả những kỹ năng thăm khám đơn giản lẫn những cuộc phức tạp phẫu thuật nhất, nhưng lại hoàn toàn miễn phí và người bệnh được bao cấp thêm tiền ăn ngày 3 bữa.
Nhưng nguồn ngân sách chính phủ dành cho y tế dần cạn kiệt. Cả hệ thống y tế xuống cấp, thiết bị hỏng hóc, cơ sở hạ tầng xập xệ, những chiếc vòi không có nước chảy, bệnh viện không có tiền, hàng dài những bệnh nhân chờ đợi.
Tình trạng ấy kéo dài cho đến tận những năm đầu của thế kỉ 21. Thế giới trước đó cả mấy chục năm, ở các nước phát triển đã phổ biến máy siêu âm màu Doppler, máy X quang kĩ thuật số, máy chụp cắt lớp vi tính. Nhưng bác sĩ chúng tôi đến tận những năm 2000, khi khám bệnh vẫn chủ yếu bằng những kĩ năng nhìn, sờ, gõ, nghe.
Từ các bậc thầy giàu kinh nghiệm cho đến bác sĩ trẻ mới vào nghề như tôi, hầu hết những thăm khám lâm sàng “không cần” sự trợ giúp của công nghệ chẩn đoán mới nhất như siêu âm hay chụp cắt lớp vi tính; bởi đó là những thứ vô cùng xa xỉ và tốn kém. Tôi không thể quên những ca mổ diễn ra ngay cả khi thiếu điện nước. Nhiều hôm đang mổ mất điện, bác sĩ gây mê phải bóp bóng thay máy thở, đèn bão được thắp lên, y tá soi đèn pin vào phẫu trường giúp phẫu thuật viên thực hiện các kĩ thuật khó.
Y tế cần phải được “cởi trói”. Và ngày 24/4/1989, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Quyết định số 45 cho phép y tế thí điểm thu một phần viện phí. Việc thực hiện Quyết định số 45 bước đầu giúp các cơ sở khám chữa bệnh giảm bớt khó khăn về kinh phí.
Đến tháng 8 năm 1994, Chính phủ quy định, một phần số tiền viện phí người bệnh tham gia đóng, sẽ trích 85% mua thuốc thang, hóa chất, vật tư tiêu hao; còn lại 15% dùng để cải thiện đời sống cán bộ công nhân viên.
“Viện phí” là thuật ngữ được công nhận chính thức từ thời điểm này.
Giai đoạn tiếp theo của chính sách “cởi trói” y tế là thực hiện xã hội hóa. Năm 1999, Chính phủ đã cho phép các bệnh viện công thực hiện liên doanh liên kết với tư nhân để đầu tư trang thiết bị máy móc, mở ra các dịch vụ y tế rồi cùng khai thác.
Để đảm bảo sự minh bạch, tính cạnh tranh và tình huống lựa chọn cho 2 hệ thống đang cùng tồn tại song song đó là công và tư, Quốc hội đã ban hành Luật giá và Luật phí. Thuật ngữ “Viện phí” và “Giá dịch vụ y tế” đã có sự phân biệt bởi sự chi phối của hai luật này.
Nhưng điều quan trọng hơn cả so với sự phân biệt giữa “Phí” và “Giá”, là hệ thống y tế đã trở nên chất lượng hơn rất nhiều lần, người bệnh đã nhận được những giá trị mà họ xứng đáng được nhận khi phải bỏ tiền ra; còn nhân viên y tế chúng tôi, đời sống cũng được cải thiện rõ rệt. So với trước đây khám cho 10 hay 100 bệnh nhân thì thu nhập vẫn như nhau, thì nay thì đã khác.
Nhìn lại chặng đường y tế chuyển đổi qua thời kì bao cấp, cho đến hôm nay thì chúng ta đang có một hệ thống chăm sóc sức khỏe hai tầng. Tầng thứ nhất, là cơ sở y tế sử dụng nguồn vốn ngân sách mà ở đó các bác sĩ tham gia nhiệm vụ khám chữa bệnh một cách tự nguyện cho những người dân bình thường và hưởng lương cơ bản. Tầng thứ hai, là y tế dịch vụ dành cho những bệnh nhân sẵn sàng chi trả tiền cho một dịch vụ và họ được nhận những giá trị chăm sóc thông qua chất lượng cao hơn, cơ sở hạ tầng tốt hơn, thiết bị mới hơn.
Sự phân định giữa “phí” và “giá” như thế không chỉ đơn thuần là vỏ bọc từ ngữ. Rộng hơn cách gọi, đây là sự phân định giữa quan niệm của nền kinh tế tập trung bao cấp và nền kinh tế thị trường; giữa ý niệm về tinh thần tự nguyện “phục vụ” của khu vực công và hoạt động mua-bán. Cho dù trong lĩnh vực nào, y tế, giáo dục, vệ sinh môi trường,… việc phân định rạch ròi hai thứ này đều rất quan trọng.
Những bác sĩ chúng tôi, trải qua nhiều thời kỳ, vượt qua những khốn khó về vật chất, hiểu hơn ai hết tầm quan trọng của việc phân biệt “phí” và “giá”.
Nhưng tôi không bằng lòng với những thành tựu. Cá nhân tôi cho rằng, cách duy trì hệ thống y tế hai tầng trong bệnh viện đảm bảo cho người dân phẫu thuật tim hở không phải chịu cảnh nợ nần suốt đời, nhưng nó không thể tạo ra ngành công nghiệp sinh học, không thể có ngành công nghiệp dược phẩm, không thể những lĩnh vực y tế mũi nhọn đủ sức cạnh tranh toàn cầu.
Sự lẫn lộn công - tư trong một bệnh viện đã bắt đầu phát lộ rất nhiều những biến chứng. Đó chính là điều mà tôi băn khoăn, rằng tại sao nền y tế của chúng ta muốn ra biển lớn nhưng không tách riêng hẳn công và tư, mà lại chọn cách bơi ngược dòng thủy triều?
Trần Văn Phúc