Với vai trò là Cố vấn cao cấp Liên minh tạo thuận lợi thương mại toàn cầu (GATF) có văn phòng tại TP HCM, ông Nestor Scherbey khá am hiểu hoạt động của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong nước trước sự tham gia sâu rộng của Việt Nam trong các hiệp định thương mại.
Trong đó câu chuyện về hàng rào kỹ thuật liên quan đến thông quan hàng hóa tại Việt Nam được chuyên gia này khá quan tâm.
Ông đánh giá, một trong số khó khăn mà các doanh nghiệp gặp phải khi thông quan hàng hóa là chi phí thương mại quá lớn. Lý do chủ yếu là do các thủ tục rườm ra, chồng chéo khiến doanh nghiệp mất thời gian lẫn tiền bạc.
Ông dẫn nguồn từ báo cáo của Ngân hàng Thế giới khảo sát tại 126 quốc gia vào dữ liệu thương mại năm 2016 của Việt Nam cho thấy, việc giảm một ngày trong thời gian xử lý thương mại và thông quan xuất khẩu sẽ dẫn đến mức tăng tối thiểu 1% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm, tương đương 2,13 tỷ USD. Đối với một số mặt hàng quan trọng trong nông nghiệp và các hàng hoá nhạy cảm với thời gian, mức tăng có thể lên đến 6%. Giảm 5 ngày sẽ mang lại kim ngạch xuất khẩu khoảng 10,65 tỷ USD.
"Các quy định thương mại lỗi thời kết hợp với các thủ tục hành chính rườm rà, không minh bạch đã tạo ra một gánh nặng cho tăng trưởng kinh tế", vị này bày tỏ.
Thực tế, thời gian qua Việt Nam nhận thấy những điểm nghẽn trong hệ thống quản lý hàng hóa hải quan. Nhiều văn bản của Chính phủ, bộ, ngành ban hành, trong nhiều nội dung có đề cập việc tạo cơ chế, chính sách để doanh nghiệp tích cực tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Tuy nhiên, theo chuyên gia, thủ tục hành chính mang tính hình thức vẫn tiếp diễn là bởi, tại Việt Nam, nhiều bộ ngành vẫn chưa sẵn sàng thực hiện những thay đổi căn bản về điều này.
"Những lời kêu gọi liên tục phải cải thiện và đơn giản hóa là không đủ để giải quyết những thách thức đặt ra", ông nói và gợi ý, tại Việt Nam, việc triển khai một hệ thống bảo lãnh thông quan hiện đại sẽ là cơ sở giải quyết vấn đề giải phóng hàng hoá tại các cửa khẩu.
Bản chất của mô hình này là tách biệt việc thông quan, giải phóng hàng hoá tại cửa khẩu và thực hiện các yêu cầu về hồ sơ, giấy tờ, điều kiện thành hai luồng quy trình, hoạt động riêng thông qua việc thực hiện bảo lãnh thông quan.
Nói một cách khác, về bản chất giống như mua phí bảo hiểm để đảm bảo nhà nhập khẩu hoặc xuất khẩu sẽ thực hiện nghĩa vụ thuế khi nhập khẩu, xuất khẩu vào Việt Nam. Những vấn đề này được thực hiện trước khi hàng đến và giúp hàng hoá khi về sẽ được thông quan nhanh hơn.
Kinh nghiệm của Mỹ cho thấy, bắt đầu tư năm 1930 nước này đã áp dụng Hệ thống bảo lãnh thông quan. Một số quốc gia khác như: Australia. Thuỵ Điển, Đan Mạch, Singapore, New Zealand, Malaysia, Philippines, Anh, Uganda, Thái Lan, Hàn Quốc... cũng đã sử dụng hệ thống bảo lãnh thông quan để tạo thuận lợi thương mại từ việc bảo đảm việc chi trả chi phí nhập khẩu và thuế cho đến các mục đích chuyên ngành khác.
Theo chuyên gia, bảo lãnh thông quan là biện pháp tạo thuận lợi thương mại có thể cung cấp cho các bộ ngành quản lý thương mại một cơ sở thực hiện các thủ tục tuân thủ hành chính hiện đại hoá và dựa trên quản lý rủi ro. Đồng thời cung cấp các công cụ răn đe tài chính hiệu quả, ngăn chặn gian lận trong hải quan và thương mại, bán phá giá, trợ cấp, xâm phạm sở hữu trí tuệ và các vi phạm thương mại quốc tế khác.
Tháng 9/2017, GATF đã chọn Việt Nam là nước đầu tiên ở châu Á thực hiện Hiệp định tạo thuận lợi thương mại của WTO (WTO TFA) bằng cách giới thiệu hệ thống bảo lãnh thông quan hiện đại cho hàng hoá xuất nhập khẩu thương mại. Dự án đã được Chính phủ đồng thuận chỉ đạo nghiên cứu triển khai và dự kiến thí điểm vào năm 2020.
Thanh Thư
Thúc đẩy thuận lợi hóa thương mại là chủ đề của Hội nghị do Ban phát triển kinh tế tư nhân phối hợp với Tổng cục Hải quan đồng tổ chức vào ngày 10/9 tại Hà Nội.
Đây là hội nghị của Liên minh Tạo thuận lợi Thương mại toàn cầu (GATF) bàn về các dự án tạo thuận lợi thương mại cho Việt Nam đã, đang và sẽ triển khai. Trong đó, nhấn mạnh dự án Bảo lãnh Thông quan - do GATF hỗ trợ kỹ thuật. Đây là một dự án đột phá sẽ làm thay đổi quy trình xuất nhập khẩu tại Việt Nam, hiện đại hoá các thủ tục thương mại và rút ngắn rất đáng kể thời giai giải phóng hàng hoá tại cảng, từ đó tiết kiệm chi phí cho doanh nghiệp, thúc đẩy sản xuất xuất khẩu và tăng tính cạnh tranh quốc gia.