Kể từ khi những phòng tranh đầu tiên ra đời tại Hà Nội vào những năm 1990, đến nay, các gallery tư nhân đã có lịch sử gần 20 năm hoạt động. Nhờ có chính sách mở cửa của nhà nước cộng với nhiệt huyết của “cái thuở ban đầu”, trong vòng 7-8 năm xuất hiện, các gallery đã thực sự trở thành một sân chơi lớn và sôi động cho giới nghệ sĩ, đồng thời góp phần tiếp thị hình ảnh nghệ thuật tạo hình Việt Nam đến với thế giới.
Nhưng gần 10 năm nay, với sự bùng thổi của cơn gió thị trường, các phòng tranh đã bị hút vào cơn lốc thương mại hóa với nhiều thủ thuật “làm hàng” cẩu thả, góp phần làm xô lệch sự phát triển lành mạnh của nền mỹ thuật đương đại. Chỉ tính riêng trên địa bàn Hà Nội đã có đến gần 100 phòng tranh lớn nhỏ, tập trung tại các phố cổ hay những khu vực đông đúc khách du lịch nước ngoài như: Hàng Bông, Lý Quốc Sư, Nhà Chung, Tràng Tiền, Ngô Quyền… Thế nhưng, người xem chẳng mấy khi có cơ hội thưởng lãm những trưng bày độc đáo, có quá ít tài năng trẻ được khai quật và tỏa sáng, dù việc chủ nhân các phòng tranh đút túi vài chục triệu đồng mỗi ngày là “chuyện thường ngày trong phố”.
Gallery - họa sĩ: “Liên hiệp” cả hai cùng có lợi
Trong thời buổi tranh, tượng trở thành một mặt hàng thời thượng, các gallery xa dần chức năng phát hiện, nâng đỡ những tài năng trẻ mà chỉ còn là một doanh nghiệp thuần túy. Chủ nhân nhiều phòng tranh là những người ngoại đạo với tầm hiểu biết hạn chế về mỹ thuật. Lúc đó, giữa gallery và họa sĩ chỉ tồn tại thứ quan hệ tiền trao cháo múc, hoàn toàn không “vị nghệ thuật”, mà chỉ “vị lợi nhuận”. Họa sĩ P.V.M. cho biết: “Do các họa sĩ không có khả năng tự mở triển lãm nên chủ phòng tranh thường đứng ra mời, chịu trách nhiệm về địa điểm trưng bày, tuyên truyền quảng cáo và kiêm nhiệm dịch vụ bán tranh. Khi tác phẩm được tiêu thụ, phòng tranh sẽ được hưởng 20-40%, thậm chí lên tới 50-60% tùy theo thỏa thuận của hai bên”. Theo họa sĩ Lương Xuân Đoàn, đây là hiện tượng bình thường của bất kỳ nền mỹ thuật nào, nhưng điều đáng lo ngại là “nhiều chủ phòng tranh thức thời, ngóng được nhu cầu của thị trường, đã đặt hàng cho họa sĩ sản xuất hàng loạt. Cách “làm hàng” đấy mới thực sự làm thui chột sức sáng tạo của người nghệ sĩ, khiến cho nền mỹ thuật xuất hiện nhiều gương mặt na ná nhau về đường nét và màu sắc”.
"Mùa thu", tác phẩm của Đào Hải Phong - họa sĩ có nhiều tranh bị sao chép.
Đó là kiểu hợp tác giữa gallery và các họa sĩ đã ít nhiều có tên tuổi. Còn với các họa sĩ "có nghề" chứ chưa "có danh", liên hiệp này “móc nối” với nhau theo một phương thức tổ chức khác: sản xuất ra những họa phẩm chép và nhái phong cách. Lực lượng chép tranh thuê chủ yếu là các sinh viên đang học hoặc đã tốt nghiệp các trường Mỹ thuật. Vừa có cơ hội rèn giũa tay nghề vừa có đồng ra đồng vào nuôi nghiệp, họ được lợi đôi đường. Nhưng những họa sĩ tương lai lợi một thì các nhà kinh doanh lãi mười. Chỉ với 200.000-300.000 đồng tiền công trả người chép thuê một bức, phòng tranh hoàn toàn có thể bán được tới vài chục triệu để thu lãi. Trần Trung, sinh viên năm 4 Đại học Mỹ thuật Công nghiệp, cho biết: “Làm thợ vẽ được hai năm, tôi biết rõ là người ta “ăn dày” trên sức lao động của mình chứ. Nhưng nỗi ấm ức này được bù đắp bằng niềm hạnh phúc nho nhỏ khi thấy sản phẩm của mình “được khách”. Điều tôi day dứt hơn cả là mình luôn bị ám ảnh với những khái niệm mà báo chí và các nhà phê bình mỹ thuật thường nhắc đến như “đạo đức nghề nghiệp”, “lương tâm nghệ sĩ”. Tôi cũng lo lắng, rồi một ngày, mình sẽ không định hình nổi phong cách riêng”.
Sự tồn tại của các gallery thương mại là điều tất yếu ở bất cứ nền mỹ thuật nào, nhưng hiện tượng nhái tranh, chép tranh như hiện nay rõ ràng đã ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của nghệ thuật đương đại, khiến nghệ thuật tạo hình Việt Nam những năm gần đây không ngoi ngóp lên nổi trên bản đồ mỹ thuật thế giới.
Salon nghệ thuật hoạt động chùng chình
Salon Natasha. Ảnh:hoa-lac.
Thành lập từ năm 1990, salon Natasha 30 Hàng Bông là gallery xuất hiện đầu tiên tại Hà Nội và đặc biệt có uy tín trong giới mỹ thuật. Chủ nhân của phòng tranh nhỏ này là vợ chồng họa sĩ Vũ Dân Tân và bà Natasha Kraevskia. Với lòng đam mê nghệ thuật và tình yêu dành cho Việt Nam, người phụ nữ Nga này đã cùng chồng dành phần lớn không gian nhà mình làm nơi hội tụ của giới nghệ sĩ, đồng thời nâng đỡ những tài năng trẻ. Các tác phẩm triển lãm tại đây được tuyển chọn kỹ và trưng bày theo những chủ đề nhất định, khác hẳn với lối tập hợp cẩu thả, thập cẩm tại các phòng tranh thương mại. Theo lời họa sĩ Vũ Dân Tân, salon của gia đình ông có thể coi là một phòng tranh hoạt động phi lợi nhuận. Các họa sĩ treo tranh tại đây nếu bán được cũng chỉ phải trích lại cho chủ nhân một số phần trăm rất thấp. Nếu ai không bán được thì tặng lại cho gia chủ một, hai bức làm kỷ niệm. Natasha là nơi góp phần giới thiệu và giúp đỡ cho những tên tuổi như Đỗ Phấn, Nguyễn Minh Thành, Nguyễn Văn Cường… Thời kỳ sôi động nhất tại Salon Natasha là những năm 1990-1995, còn hiện nay, phòng tranh hoạt động thưa thớt hơn, ít triển lãm tranh nhưng vẫn là địa chỉ uy tín, là nơi đi về thân thuộc của những người yêu nghệ thuật.
Giới hội họa Hà Nội không xa lạ gì với tên tuổi của Lê Thiết Cương và gallery 39A Lý Quốc Sư. Ra đời muộn hơn Natasha nhưng phòng tranh này có định hướng hoạt động khá quy mô và sáng tạo. Với những triển lãm từng được tổ chức như: Nude, Hạt gạo, Bản thảo, Vô diện,… 39A Lý Quốc Sư đã tạo được cho mình một hình ảnh khác hẳn những sắc màu nhờ nhạt và đậm chất thị trường tại các phòng tranh tư nhân. Ông chủ Lê Thiết Cương cho biết: “Tôi nghĩ, nên gọi 39A Lý Quốc Sư là một salon “non-profit”. Chúng tôi tài trợ cho các tài năng trẻ vì mục đích nghệ thuật chứ không vì thương mại hay danh tiếng. Danh tiếng - tôi đã có đủ”.
Tháng 7, Trung tâm Nghệ thuật Việt Nam (VAC) cũng đã ra đời với nhiều hoạt động văn hóa, nghệ thuật, chủ yếu là nghệ thuật tạo hình được tổ chức đều đặn để giới trí thức và văn nghệ sĩ thành phố có thêm một nơi hội tụ.
Tuy vậy, trong sự bùng nổ của các gallery chép tranh, nhái tranh như hiện nay, hiệu quả mà những salon nghệ thuật có định hướng hoạt động chuyên nghiệp tạo ra mới như muối bỏ biển, chưa đủ sức lấn át được xu hướng thương mại đang trở thành dòng chính và chưa lôi kéo được sự quan tâm của đông đảo công chúng yêu mỹ thuật.
Công chúng thờ ơ
Đến nay tại Việt Nam, mỹ thuật vẫn chưa phải là một loại hình nghệ thuật dành cho đại chúng. Số người thưởng thức và chơi tranh, tượng chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong công chúng. Khách hàng chủ yếu của các gallery là người nước ngoài, phần lớn là khách du lịch, họ mua tranh, tượng Việt Nam như một món quà souvenir. Số nhà sưu tập chuyên nghiệp đến Việt Nam tìm tranh có chăng cũng chỉ đếm được trên đầu ngón tay.
![]() |
Người xem tại một triển lãm tranh. Ảnh: isds. |
Hồi tưởng lại một thời sôi động của đời sống mỹ thuật Việt Nam, hoạ sĩ Vũ Dân Tân cho biết: "Đầu những năm 1990, chúng tôi tổ chức những triển lãm hấp dẫn như Đỏ và Vàng. Trong đó, các tác phẩm được trưng bày chỉ sử dụng màu đỏ và vàng. Khách mời đến triển lãm cũng được yêu cầu ăn vận trang phục chỉ có hai gam màu đó. Người xem đã đứng tràn ra phố. Đó là một giai đoạn sôi nổi của đời sống văn nghệ. Người ta mong chờ từng triển lãm rồi háo hức rủ nhau đi xem".
Còn ngày nay, các buổi giới thiệu tranh hầu như chỉ đông vui được vào đúng giờ khai mạc, còn sau đó thì vắng ngắt vắng ngơ. Lý giải về sự lạnh lùng của công chúng với nghệ thuật tạo hình, hoạ sĩ Vũ Dân Tân cho rằng, lỗi không phải ở nhận thức của số đông. "Không thể nói rằng, người xem không quan tâm đến mỹ thuật vì họ không có khả năng hiểu mỹ thuật. So với ngày xưa, nhận thức của quần chúng về loại hình nghệ thuật đã được nâng lên rất nhiều. Đầu thập niên 90, do mới mở cửa, hoạ sĩ lần đầu tiên được công bố tất cả những gì mình âm thầm sáng tạo, từ nude cho đến siêu thực, trừu tượng… mà không bị cấm đoán, nên họ đam mê hết mình. Công chúng cũng bước đầu lần đầu tiên được tiếp xúc rộng rãi với loại hình nghệ thuật này nên với họ, cái gì cũng hay, cũng lạ. Hai yếu tố đó cộng hưởng, tạo thành một không khí đời sống tinh thần lành mạnh và trong sáng. Còn bây giờ, mọi thứ đã bão hoà. Người xem đã chán những gì lặp đi lặp lại. Họ chỉ quan tâm khi người nghệ sĩ sáng tạo được một cái gì đó thật hay, thật lạ, thật ấn tượng. Mà điều đó, ngày nay không nhiều", ông nói.
Quả thực, với sự trùng lặp phong cách, sự nghèo nàn về ý tưởng và hình thức thể hiện, giới mỹ thuật đã đẩy công chúng ra xa mình hơn.
Quang - sinh viên năm 5 Đại học Bách khoa - cho biết: "Thỉnh thoảng, tôi cũng dạo qua vài cái triển lãm nhưng thú thật là tôi ít thấy ấn tượng. Nếu vẽ về thủ đô thì chỉ quanh quẩn cạnh cái Hồ Hoàn Kiếm và mấy dãy phố cổ. Còn tranh phong cảnh làng quê thì chắc chắn có đống rơm vàng và con trâu ve vẩy đuôi. Xem một vài lần rồi chán".
Một điều nghịch lý của nền mỹ thuật Việt Nam hiện nay là sự xuất hiện của các vụ đạo tranh, chép tranh, nhái tranh, làm tranh giả gây ồn ào và được công luận biết đến nhiều hơn là sự ra đời của những tác phẩm có giá trị, những tài năng có triển vọng. Mỹ thuật Việt Nam hiện nay đang tụt hậu vì cơn lốc của dòng tranh thương mại hóa. Dùng nghệ thuật để nuôi nghệ thuật là một nhu cầu chính đáng. Song, một khi các điều kiện vật chất đã được đáp ứng, liệu người nghệ sĩ có thể quay lại với cái tôi của chính mình sau những thỏa hiệp dễ dãi với thị hiếu thị trường?
Lưu Hà