![]() |
![]() |
![]() |
Toyota F104 tại Việt Nam Motorshow 2004. |
Cuộc đua ôtô đầu tiên được ghi nhận diễn ra tại Pháp năm 1894 và phát triển nhanh chóng cùng với sự lớn mạnh của ngành công nghiệp xe hơi. Sau Thế chiến II, các hãng xe tại châu Âu phải bắt tay gây dựng lại cơ nghiệp từ những cơ sở bị tàn phá nặng nề. Thử nghiệm tốc độ là một cách để hoàn thiện những sản phẩm và nhờ đó, những giải đua xe có cơ hội phát triển trở lại. Các hiệu xe thể thao thi nhau mọc lên và hầu như đều lập đội đua Công thức 1.
Tuy nhiên, chi phí quá đắt đỏ đã khiến không ít tên tuổi phải ngậm ngùi chia tay giải đua danh giá này như Lotus hay Alfa Romeo, thậm chí một số còn lâm vào tình trạng phá sản như Arrow, đội đua của huyền thoại Alain Prost, vào năm 2002. Tất cả các đội đua ngày nay đều phải liên kết với những hãng xe lớn để tìm cách tồn tại. 4 đội đua danh giá nhất đều được đỡ đầu bởi những tên tuổi hùng mạnh. Ferrari thuộc sở hữu của Fiat, Williams có sự bảo trợ từ BMW, McLaren gắn liền tên tuổi với Mercedes-Benz, còn Renault cho đội đua cùng tên.
Chính vì lý do đó, Toyota đã mạnh dạn tiến vào lĩnh vực này năm 1999 mặc dù chưa hề có chút kinh nghiệm nào. Trước đó, hãng cũng tạo dựng được không ít danh tiếng tại giải đua vượt sa mạc Paris - Dakar, giải đua Le Mans 24h và nhất là 7 danh hiệu tại giải vô địch đua xe đường trường thế giới. Nhưng từ khi quyết định tham dự F1, Toyota từ bỏ các giải đua khác khi tính toán rằng trong khoảng thời gian đầu tiên, kinh phí đầu tư sẽ không dưới 200 triệu USD mỗi năm.
Để có thể dự mùa giải 2002, trong 3 năm liên tục, đội ngũ của Toyota phải liên tục thử nghiệm và sửa chữa. Sự hậu thuận từ đối tác Panasonic cùng thành công của hãng xe đồng hương Honda (cộng tác với đội BAR và từng cùng Williams thống trị các đường đua đầu thập kỷ 90) đã khích lệ Toyota. Chế tạo động cơ là lĩnh vực sở trường, nhưng hãng đã thực sự đặt mình vào thế khó khi quyết định sẽ tự sản xuất cả khung xe. Trước Toyota, mới chỉ có các đội Ferrari, Renault và McLaren đủ sức làm như vậy. Do vậy, lãnh đạo hãng đã có nước cờ sáng suốt là lôi kéo Giám đốc kỹ thuật, chuyên gia trong lĩnh vực khung xe của Renault - Mike Gascoygne - từ đầu năm 2004. Chính Gascoygne đã góp công rất lớn trong việc chế tạo chiếc F104 và F104B.
Chiếc xe TF104
Gia nhập làng đua năm 2002, Toyota chỉ giành được đúng 2 điểm. Nhưng mùa giải kế tiếp là một thành công vượt bậc của đội với 16 điểm. Điều đó càng củng cố quyết tâm của đội để tung ra chiếc TF104 cho giải năm 2004. Cũng như những phiên bản trước, chiếc xe được chế tạo tại nhà máy đặt ở Cologne. Khác với đời trước, TF104 cải thiện được sự yếu kém trong thiết kế khí động học, nhất là không tạo đủ lực ép xuống (downforce), dẫn đến độ bám đường không cao.
Không ngừng nghiên cứu cải tạo, từ chặng 12 của giải năm nay ở Hockenheim, Toyota đã chuyển sang sử dụng phiên bản nâng cấp TF104B. Sự khác biệt dễ nhận thấy nhất là mũi xe mới nhỏ hơn, cánh gió cánh gió trước cũng được thiết kế lại với hai cánh phụ hai bên mỏng hơn. Động cơ RVX-04 có đường xả khí hẹp hơn, có dung tích bị hạn chế ở mức 3.000 cc theo quy định, công suất 900 mã lực.
Với những thành công hiện nay, Toyota kỳ vọng sẽ gặt hái nhiều chiến tích hơn trên các đường đua Công thức 1. Trước khi đoạt liên tiếp 5 danh hiệu vô địch kép kể từ năm 2000, Ferrari đã có giai đoạn 16 năm chìm trong bóng tối. Và họ cũng chỉ giành được những thành công hiện nay sau khi kiên trì theo đuổi mục tiêu từ năm 1995 tới năm 2000. So với Ferrari, đội đua nổi tiếng nhất và thuộc hàng lâu đời nhất, Toyota mới chỉ là chú bé chập chững. Và tương lai hãy còn phía trước.
Thông số kỹ thuật TF104 | |
Chất liệu vỏ | Sợi carbon |
Hộp số | Titan, 7 cấp, bán tự động |
Treo trước/sau | Cần đẩy với thanh xoắn |
Động cơ | RVX-04 |
Số xi-lanh | 10 |
Cấu trúc máy | V90, 3.000 cc |
Nhiên liệu | Hydro carbon |
Công suất cực đại | 900 mã lực |
Tốc độ vòng quay tối đa | 19.000 vòng/phút |
Chiều dài toàn thể | 4.627mm |
Chiều dài cơ sở | 3.090 mm |
Chiều rộng đo hai lốp trước | 1.425 mm |
Chiều rộng đo hai lốp sau | 1.411 mm |
X.O.