Hoàng Tố Mai -
Và con quạ không hề động cánh, vẫn im lìm, tọa im lìm
Trên bức tượng xanh xao, tượng Pallas bán thân bên trên cánh cửa
Và mắt ấy, mắt quỷ đương mơ ngủ
Và ánh đèn trên cao đổ bóng
Và hồn tôi khi nào thoát khỏi
Bóng quạ đen dập dềnh trên sàn
Không thể nào bay lên - không bao giờ nữa"! (19)
Bài thơ Con quạ còn thể hiện những sáng tạo lớn của Poe trong quá trình ứng dụng thi luật. Chính Poe cũng nhắc đến sáng tạo này của mình rất chi tiết trong bài tiểu luận Triết lý về soạn tác (The Philosophy of Composition). Nhưng phải đến Những quả chuông, bài thơ cuối cùng để lại, thì sự cách tân về thi pháp của Poe mới đạt đến đỉnh điểm. Từng dòng, từng chữ ngân lên vang vọng, tưởng chừng như được cuốn theo những hồi chuông biến ảo, khi rộn ràng tràn ngập niềm hoan lạc, khi lảnh lót inh ỏi như những tiếng la hét hãi hùng. Bài thơ chia làm bốn đoạn tương ứng với những giai điệu chuông khác biệt: chuông bạc, chuông vàng, chuông đồng thau, chuông sắt. Đầu tiên là những quả chuông bạc. Mỗi khi tiếng chuông ngân lên thì "những vì sao lấm tấm rải khắp những vùng trời với một niềm vui trong suốt pha lê"(20). Những quả chuông vàng kế tiếp cũng dự báo một thế giới hạnh phúc bằng âm hưởng như được rung lên từ "những âm thanh vàng tan chảy". Nhưng phần cuối của đoạn này tiếng chuông bắt đầu hối hả hơn, như "một luồng âm thanh ngọt ngào vọt trào lênh láng"(21). Đoạn thứ ba, những quả chuông đồng thau báo nguy đột ngột xuất hiện. Chúng kể về một "câu chuyện rùng rợn" tràn ngập những tiếng la hét sợ hãi. Nhịp chuông trở nên kỳ quái, điên đảo với những âm thanh ầm ĩ chói tai. Đoạn cuối cùng: Những quả chuông sắt. Thanh âm của chúng như những "lời ai điếu ngân nga một thế giới trầm tư xiết bao trang nghiêm"(22). Phần cuối đoạn thơ này cũng là phần kết thúc bài thơ đã khiến độc giả hết sức bất ngờ. Tác giả hé lộ bí mật về những hồi chuông rùng rợn, quái gở kia. Đó chính là hòa âm của quỷ, những con quỷ ngự trên gác chuông. Và vua quỷ chính là kẻ đã dộng chuông để tạo tác một bài tụng ca bằng một tiết tấu tà ma, hoan lạc. Không hiểu sau khi viết Những quả chuông Poe có dự tính được một chiều hướng nhận thức khác từ phía độc giả? Nếu đắm mình theo những câu thơ rất giàu vần điệu lại được nhả ra theo thứ nhịp phách tự do, phóng túng, điên đảo chẳng khác nào nhịp đập của một trái tim bất ổn thì nhiều độc giả sẽ cảm nhận vua quỷ chính là tác giả bài thơ, người đã gióng lên bản hoà điệu chuông ngôn từ thần diệu và mãnh liệt. Đây là những câu thơ trong phân đoạn ba:
Hãy lắng nghe những hồi chuông báo nguy inh ỏi -
Những quả chuông đồng thau!
Lúc này sự hỗn loạn của chúng kể câu chuyện xiết bao khủng khiếp!
Đêm rùng mình lắng nghe
Nỗi khiếp sợ chúng gào thét lên!
Quá sợ hãi không nói thành lời,
Chỉ có thể rít lên, rít lên,
Lạc giọng,
Khi thì kêu la van vỉ lòng khoan dung của lửa,
Khi thì oán trách điên dại đám lửa cháy điếc đặc và điên cuồng
Cứ bốc cao lên, càng cao, càng cao hơn
Với một ham muốn tuyệt vọng,
Một nỗ lực quyết liệt
Lúc này - không lúc này thì chẳng bao giờ nữa,
Vươn đến ngồi bên trăng tái nhợt.
Ôi, những quả chuông, quả chuông, quả chuông!
.......
Sự thay đổi giọng chuông đột ngột từ hoan lạc, hạnh phúc sang rùng rợn, thê thảm với sự gia tăng dồn dập những trạng thái cảm xúc nặng nề khủng khiếp trong những câu thơ nhịp phách tự do, điên đảo đã khiến bạn đọc không khỏi bàng hoàng. Phải chăng, những tiếng chuông vàng chuông bạc dạo đầu ngắn ngủi kia chỉ là những ảo ảnh dối lừa, còn thế giới hiện hữu thì chìm trong nỗi sợ? Và có lẽ nào, cuộc đời này chỉ là bữa tiệc của quỷ? (***)
Những năm tháng cuối đời, Poe bị giới phê bình đem ra châm chọc rất ác ý. Bài thơ cũng thể hiện phần nào sự mệt mỏi và tuyệt vọng của ông. Những quả chuông đã trở thành bài thơ để đời thứ hai của Poe (sau bài Con quạ) và càng ngày nó càng được đánh giá vì tính hiện đại. Bài thơ là một cuộc cách mạng về thi pháp. Sự cộng hưởng tuyệt vời giữa nhịp điệu và ngôn từ cùng với sự tuyệt vọng và nỗi sợ như được chắt ra từ những cơn ác mộng mê loạn, vẫn làm sửng sốt bạn đọc hai thế kỷ sau.
Ngoài những bài thơ dài, u ám, ít nhiều nét tự sự Poe cũng để lại một số những bài thơ nhẹ nhàng, trong trẻo, chỉ thoáng gợn đôi chút ưu phiền. Gửi F (To F) là một bài hay trong số này.
Yêu dấu ơi! Giữa những phiền muộn da diết nhất
Khi đám đông vây quanh lối nhỏ tôi bước đi trên trần thế
(Lối nhỏ thê lương, than ôi, không mọc nổi
Dù chỉ một bông hồng đơn độc)
Tâm hồn tôi ít nhất cũng được khuây khỏa
Trong giấc mơ về em
Nơi đó vườn địa đàng
Êm đềm, thanh thản
Và tôi như đảo xa mê hoặc
Trên biển xanh bão dông náo động
Đại dương xa xôi ầm ào cuộn sóng
Cháy bừng lên nhờ kỷ niệm về em
Như khoảng trời thanh thản dịu êm
Cười im lặng, miền cao xanh vời vợi (23)
Giới văn chương chính thống Mỹ đã đón nhận Edgar Allan Poe khá muộn. Khi nhiều nhà phê bình Mỹ thờ ơ thậm chí khó chịu với những tác phẩm của Poe thì ở Pháp, ông được xem như một hiện tượng văn chương đáng kinh ngạc. Năm 1856, Charles Baudelaire đã dành cho Poe những lời trân trọng: "Tôi mong muốn rằng Edgar Poe, một người không vĩ đại ở Mỹ, sẽ phải trở thành người vĩ đại ở Pháp" (24). Baudelaire viết những tiểu luận ca ngợi Poe. Ông và Stéphane Mallarmé say mê dịch thơ và truyện ngắn của Poe, đó là những bản dịch chính xác, tuyệt vời, nhờ đó mà Edgar Poe, một nhà văn Mỹ bị quên lãng đã trở thành nhân vật quan trọng trong văn học Pháp. Mallarmé còn dành cho Poe những vần thơ tràn ngập thán phục và ngưỡng mộ: Thi nhân với thanh đoản kiếm tuốt trần/ Đã gây cho thế kỷ của ông/ Bị kinh hoàng/ Bởi không hiểu được (25). Sự ảnh hưởng trực tiếp của Poe đối với văn học Mỹ đương thời là không đáng kể nhưng từ sự ảnh hưởng của ông đối với nhiều nhà thơ Pháp nửa sau thế kỷ XIX, Poe đã để lại những dấu ấn sâu đậm của mình trong văn học thế giới. Cuối cùng thì Poe cũng tạo được ảnh hưởng của mình ở Mỹ một cách gián tiếp, thông qua dư âm vọng lại từ những nền văn học khác. Khi thấy Poe được tôn vinh ở Châu Âu, người Mỹ bắt đầu đọc và đánh giá lại ông. Bước tiếp theo, qua những bản dịch tiếng Pháp, tác phẩm của Poe đã thổi một luồng gió lạ vào khuynh hướng sáng tác của những nhà thơ Pháp tượng trưng như Charles Baudelaire, Stéphane Mallarmé, Arthur Rimbaud... ảnh hưởng của những nhà thơ vĩ đại này lan tỏa khắp Châu Âu và tất nhiên, không loại trừ nước Mỹ.
Những độc giả yêu thích Edgar Allan Poe sẽ thêm một lần khâm phục khi đọc những bài viết của Poe bàn luận về văn chương hay công việc viết văn. Những tác phẩm này bộc lộ năng lực tư duy, lý luận cũng như cảm thụ văn học tuyệt vời. Chúng nổi tiếng vì những câu văn trí tuệ pha lẫn mỉa mai hài hước. Những định nghĩa của Poe về bản chất của sáng tác văn học và đặc biệt là trong những bài viết của ông về thể loại truyện ngắn vẫn có ảnh hưởng lâu dài với nhiều nhà văn Mỹ và Châu Âu. Ông còn là một nhà văn hết sức đề cao sự chuẩn xác về ngôn ngữ, vận luật (trong thơ) và cấu trúc của tác phẩm. Trong đời mình, Poe đã từng gây nên nhiều cuộc bút chiến rất sôi động. Đáng kể nhất là cuộc "tấn công" Henry Wadsworth Longfellow. Bài viết mở đầu cho cuộc bút chiến này được đăng trên tờ Mirror số ra ngày 13 và 14 tháng 1 năm 1845. Poe đã công kích mạnh mẽ hợp tuyển thơ The Waif, một tập thơ khá cẩu thả do Henry Wadsworth Longfellow tuyển chọn và biên tập. Poe đã mỉa mai khen bài thơ đề tựa của Longfellow là bài thơ có "giá trị nhất" trong tập sách vì "những nhược điểm về nhịp thật phù hợp với chủ đề của nó". Poe cho đây là một tập thơ bị "nhiễm bẩn với một vết nhơ tinh thần" vì Longfellow đã không đưa vào những nhà thơ Mỹ được xem là đối thủ của mình (tất nhiên trong đó có Edgar Allan Poe), những nhân vật có thể gây phiền nhiễu trong những cuộc tranh cãi về thơ của Longfellow. Ngoài ra Poe còn ám chỉ rằng Longfellow là một kẻ chuyên đạo văn của người khác. Ông viết: "Những nhà thơ này Longfellow có thể tiếp tục bắt chước (Phải chăng đây mới là từ đích đáng?) và thậm chí chưa bao giờ ca ngợi họ cho dù chỉ là tình cờ". Ngày 25 tháng 1 tờ Western Literary Messenger (Người đưa tin văn học phương Tây) có công bố một bức thư với một bút danh lạ (hình như là do Poe gửi đến). Trong thư tác giả so sánh bản dịch bài thơ "The Good George Campbell" (George Campbell tốt bụng) từ tiếng Đức của Longfellow và một bài ballad của Scotland có tên "Bonnie George Campbell" (cũng có nghĩa là George Campbell tốt bụng). Hai văn bản này rất giống nhau. Poe không những vạch mặt Longfellow là kẻ đạo văn thô thiển mà còn cho rằng ông ta thật trơ tráo khi tin rằng có thể "nhập nhằng" một bài hát cổ của Scotland thành một bản dịch thơ từ tiếng Đức. Bản thân Longfellow cũng đã đưa ra một hợp tuyển có in bản dịch bài thơ bằng tiếng Đức. Quả là Longfellow cũng làm một công việc thật khó hiểu, dịch lại một bản dịch tiếng Đức được dịch từ một văn bản tiếng Anh. Nhân cơ hội này tờ New York đã cho đăng bản dịch của Longfellow và bài thơ nguyên tác bên cạnh nhau rồi chua thêm một dòng: "ái chà, một sự trùng hợp ngẫu nhiên?"( ****)
Trong cuộc bút chiến này Poe đã chiếm được lợi thế. Tuy nhiên, ông cũng nhận được nhiều bài viết giáng trả, ông đã phải dành rất nhiều thời gian viết cả trăm bài đối đáp lại với Longfellow và các nhà văn khác. Đây là một cuộc bút chiến được coi là ồn ào nhất, kỳ lạ nhất và dài nhất trong lịch sử văn học Mỹ. Ngoài những bài báo tranh luận hết sức linh hoạt, sống động, Poe còn để lại những bài tiểu luận, bài nói chuyện rất đặc sắc: Triết lý về soạn tác, Astoria; hay Những giai thoại về một công trình bên kia những dãy núi đá (Astoria; or, Anecdotes of an Enterprise Beyond the Rocky Mountains) (viết về một tác phẩm của Washington Irving), Bản chất thơ (The Poetic Principle)... Triết lý về soạn tác được nhắc đến nhiều nhất vì trong bài tiểu luận này Poe đã viết lại quá trình sáng tác bài thơ Con quạ. Poe là tác giả đầu tiên viết lại chi tiết quá trình sáng tác một bài thơ của bản thân. Bằng bài viết này Poe giải đáp được hầu hết những câu hỏi, thắc mắc của bạn đọc thời đó cũng như bây giờ. Ông đã "mổ xẻ" rất kỹ lưỡng bài thơ này và không ngần ngại phơi bày những mánh lới nghề nghiệp tưởng chừng như khá vụn vặt, chẳng có gì là cao siêu cả. Cho đến nay dường như chưa ai viết về Con quạ hay hơn Edgar Allan Poe. Triết lý về soạn tác còn được đánh giá cao vì đã đưa ra những luận điểm văn chương độc đáo và quan trọng. Cũng từ bài viết này Poe đã được nhìn nhận như là một trong những nhà lý luận phê bình Mỹ danh tiếng. Trong bài tiểu luận Triết lý về soạn tác, Poe viết một đoạn rất hay về nghề: "Tôi nghĩ là có một sai lầm cơ bản trong cách thức quen thuộc để xây dựng một câu chuyện. Hoặc lịch sử đưa ra một luận điểm - hoặc luận điểm được gợi ra bởi một sự kiện thời sự - hoặc tốt nhất tác giả tự mình làm công việc tổ hợp những biến cố đặc sắc đơn thuần để hình thành cơ sở cốt truyện - thường là thiết kế có chủ đích những kẽ trống của thực tế hoặc hành động, rồi, lần lần từng trang làm cho chúng trở nên rõ hơn bằng cách đưa vào đó những đoạn miêu tả, đối thoại hoặc bình luận của tác giả. Tôi thì lại thích bắt đầu bằng sự cân nhắc một hiệu quả cho tác phẩm. Luôn phải quan tâm đến sự độc đáo - bởi vì anh nhà văn nào mưu toan sử dụng nguồn hứng thú quá rõ và quá dễ đạt được vì có sẵn thì anh ta sẽ lâm vào tình trạng giả dối với chính mình - tôi thì trước tiên tự nhủ: "Trong vô số những hiệu quả hay ấn tượng có thể gợi ra được ở trái tim, ở trí tuệ hoặc (khái quát hơn) ở tâm hồn, trong trường hợp này chúng ta, tức là tôi sẽ chọn hiệu quả nào. Sau khi chọn một hiệu quả với đặc tính thứ nhất là mới, thứ hai là mạnh mẽ, tôi cân nhắc hoặc là viết bằng những sự kiện bình thường và giọng kể đặc biệt, hoặc là ngược lại, sự kiện đặc biệt, giọng bình thường, hoặc là cả sự kiện và cả giọng đều đặc biệt - và sau đó cân nhắc (hay đúng hơn là suy ngẫm) xem tổ hợp những sự kiện và giọng nào trong các tổ hợp nói trên sẽ giúp tôi nhiều nhất trong việc gây dựng hiệu quả." (26). Những luận điểm về thơ trong bài viết này cũng rất hay: "Có hai điều luôn luôn được đòi hỏi - thứ nhất, một lượng phức tạp nào đó hay nói đúng hơn một lượng ráp nối nào đó; và thứ hai một lượng ám gợi nào đó - những ý nghĩa chạy ngầm ở dưới mà lại mập mờ. Đặc biệt là chính mảng này truyền cho công trình nghệ thuật không biết bao nhiêu là màu mỡ (richness) (tôi mượn từ lời ăn tiếng nói hàng ngày cái từ sống động này) mà chúng ta thường rất thích nhầm lẫn với lý tưởng. Chính sự nống lên quá đáng ý nghĩa được ám gợi - thay cho sự chạy ngầm dưới chủ đề lại làm cho nó lộ ở bên trên - chính sự quá đáng này biến cái gọi là thơ của cái gọi là trường phái siêu nghiệm thành văn xuôi (mà lại là thứ văn xuôi tầm thường nhất)."(27). Poe đã chỉ ra cho độc giả thấy thơ không thể thiếu vắng sự ám gợi. Nó tạo cho thơ một sức cuốn hút ghê gớm thậm chí mê hoặc. Nhưng nếu thiếu sự sáng suốt thậm chí vô tư thì sự ám gợi sẽ bị mất đi hiệu quả vốn có, thơ sẽ biến dạng và tha hóa. Ở một số bài viết khác Poe còn bộc lộ tham vọng đi đến cùng bản chất thi ca. Những định nghĩa về thơ của ông thường là độc đáo. Poe cho rằng "Một bài thơ giống như cái chết của một người đàn bà đẹp" (28) hay trong bài nói chuyện về Bản chất thơ ông đã tuyên bố: "Thơ là sự sáng tạo cái Đẹp có tiết tấu mà trọng tài duy nhất là thị hiếu" (29). Những luận điểm văn học của ông giản dị, dễ hiểu nhưng luôn mới lạ và mang tính chuyên nghiệp cao. Chúng thường được trích dẫn trong những bài nghiên cứu và tiểu luận của nhiều nhà văn và học giả tên tuổi. Với rất nhiều văn nghệ sĩ thì những luận điểm này không chỉ đơn thuần là kinh nghiệm. Chúng còn là những chuỗi ngôn từ được sắp xếp sao cho hiệu quả âm thanh cũng như cảm xúc cùng hòa đồng tuyệt diệu. Không chỉ dễ nhớ và muốn nhớ, mà còn thực sự cảm hứng khi nhớ lại.
Sống một cuộc đời ngắn ngủi nhưng Poe đã kịp đi đến cùng những lĩnh vực sáng tác riêng biệt: truyện ngắn, thơ, và lý luận phê bình. Những trang viết tràn ngập ấn tượng ấy đã được hoài thai trong lòng nước Mỹ, chúng dự báo những thành quả nghệ thuật bất ngờ tiếp theo của quốc gia non trẻ này. Trong thế kỷ XX, nước Mỹ được coi là cái nôi sinh trưởng nhiều trào lưu văn hóa, nghệ thuật mới lạ, điển hình là nhạc Jazz, Rock 'n' Roll, Hip-hop(30)... Nước Mỹ đầu thế kỷ XIX chưa hùng mạnh như sau này nhưng đã tiềm ẩn một tương lai hứa hẹn, một quá trình phát triển mạnh mẽ chưa từng thấy. Một nước Mỹ đầy thực dụng ngay từ thuở mới khai sinh. Và tài năng của Poe đã nảy nở trên mảnh đất ấy. Nếu Hip-hop là con đẻ của dân chủ Mỹ, là sự giải toả của những người da đen trước nạn phân biệt chủng tộc, thất nghiệp, sự đàn áp tàn bạo của cảnh sát thì những tác phẩm kỳ dị của Poe lại nảy nở từ dự cảm về vực thẳm ngầm ẩn của cuộc sống hiện đại. Hậu quả của nhập cư, đô thị hóa, công nghiệp hóa và sự kết hợp hỗn loạn những nền văn hóa khác biệt từ nhiều quốc gia đã thực sự tàn phá đời sống nội tâm của nhiều thế hệ, điều này đối với trái tim nhạy cảm của Poe là một cơn ác mộng dai dẳng, kinh hoàng. Cảm giác bất an, bồn chồn, ám sợ là chất liệu lý tưởng để Poe viết nên những câu chuyện "mê hồn sởn gáy". Nỗi sợ trong những tác phẩm của ông đã đạt tới hiệu quả mỹ học mạnh mẽ, nó có sức lôi cuốn, thậm chí mê hoặc. Nó khơi gợi cảm hứng sáng tạo của không biết bao nhiêu văn nghệ sĩ trong và ngoài nước Mỹ. Khi thể hiện những trang viết vô song ấy, linh hồn ông đã chìm ngập vào thế giới của bóng tối, lời thú nhận tựa vần thơ ám ảnh: "Mọi vực thẳm của lòng đất và sự xấu xa bao lấy tôi huyền diệu" (31). Và chất uymua đặc sắc cũng như năng lực tư duy kiệt xuất của tác giả đã "dương bản" hóa những trang viết như được thảo từ địa ngục. Tạo ra ác mộng, khai thác ác mộng, đắm chìm vào ác mộng đã trở thành cuộc sống thứ hai của Poe. Ông đã khéo léo biến độc giả thành nạn nhân cuả nỗi sợ nhưng là nạn nhân tự nguyện, kiểu như "một thứ khoái cảm trong sự tự hành hạ."(32). Một trong những "nạn nhân" đáng kể nhất của Poe, Jorge Luis Borges, đã dành cho ông những vần thơ cảm phục, thấu hiểu.
Từ mùa bội thu của thần chết, anh mở
đại hội những bóng ma, anh chẳng sợ.
.........
Làm loá mắt anh chẳng phải đá hoa cương hay vàng bạc mà chính là hoa hồng. (33)
Nó không bị xâm nhiễm bởi những thông điệp đạo đức, chính trị tầm thường. Đó là một thế giới nghệ thuật thuần khiết tràn ngập những hình ảnh kỳ lạ và mê hồn.
Văn học nước ngoài, số 3, tháng 5-6/2004, số kỷ niệm 195 năm sinh E.A.Poe (1809-2004)
Phần 1
Chú thích:
(19) - (22) Edgar Allan Poe, Thơ Edgar Allan Poe (The works of Edgar Allan Poe), Wordsworth Edition Ltd xuất bản,1995, tr. 4, tr.5, tr.6, tr.7.
(23) Edgar Allan Poe, Thơ Edgar Allan Poe, Sđd, tr. 19.
(24) Robert Regan, bài mục Edgar Allan Poe, THE 1998 GROLIER MULTIMEDIA ENCYCLOPAEDIA CD.
(25) Stéphane Mallarmé, Tuyển tập Edgar Allan Poe, bài thơ Ngôi mộ của Edgar Allan Poe, Nxb Văn học, Hànội, 2002, tr.708, 709, Quỳnh Thư Nhiên dịch, Đông Hoài hiệu đính.
(26)-(27) Edgar Allan Poe, Toàn tập tác phẩm của Edgar Allan Poe, Sđd, tr.1079, 1080,1088.
(28) Hoàng Nhân, báo Văn nghệ số số 3 ngày15/1/2000, bài Nỗi đau và ảo mộng, tr.10.
(29) William Mac Kay, Thơ Edgar Allan Poe (The complete poems), Lời giới thiệu, Barnes & Noble, Inc xuất bản năm 1999, tr.3.
(30) Tiếng lóng, dùng để chỉ nền văn hoá đường phố, đại chúng tại những thành phố lớn, đặc biệt là những nơi tập trung nhiều thanh niên da màu có thu nhập thấp, được thể hiện qua tranh vẽ tường (ga điện ngầm), vũ điệu break dance và nhạc rap. Xuất phát từ Bronx (New York) giữa thập niên 70, Hip-hop thực sự bùng nổ từ khi giới chủ sở hữu những khu nhà ổ chuột đã mướn bọn lưu manh châm lửa đốt sạch những dãy nhà đã bị mất giá, nhằm xua đuổi những người đang ở thuê để nhận được hàng triệu đôla tiền bảo hiểm (Xem Jeff Chang, tạp chí Người đưa tin UNESCO, Cuộc phiêu du rạng rỡ của Hip-hop, tháng 9/2000).
(31) Hoàng Nhân, Sđd.
(32) Edgar Allan Poe, Toàn tập tác phẩm của Edgar Allan Poe, Sđd, tr. 1085.
(33) Jorge Luis Borges, Tuyển tập Jorge Luis Borges, bài thơ Edgar Allan Poe, Nxb Đà nẵng 2001, tr. 51, Nguyễn Trung Đức dịch.
(***) Xem Kenneth Silverman, Sđd, tr.404.
(****) Xem Kenneth Silverman, Sđd, tr.234, 235, 236.