Hoàng Tố Mai -
Thơ và tiểu luận của ông cũng là những mảng sáng tác quan trọng, đặc biệt là thơ. Sự xuất hiện của Poe trên văn đàn Mỹ nửa đầu thế kỷ XIX là câu đố ám ảnh nhiều thế hệ bạn đọc. Ông là tài năng văn chương đột biến, phi thường. Những trang viết của Poe dường như xa lạ, cách biệt với những cây bút đương thời. Ông tạo riêng cho mình một thế giới văn học bí ẩn, rợn ngợp cùng với những trạng thái cảm xúc được đẩy đến tột cùng. Không chỉ là một hiện tượng văn chương Mỹ độc nhất vô nhị, Poe còn được xem như đã góp phần mở ra một thời kỳ huy hoàng của văn học hiện đại Mỹ và thế giới.
Cuộc đời ngắn ngủi và đầy rủi ro, bất hạnh của Poe đã để lại không ít dấu ấn lên những tác phẩm kỳ lạ và mê hoặc. Ông mồ côi từ khi rất nhỏ, bố bỏ đi, mẹ qua đời từ năm lên hai. Cậu bé Poe được gia đình ông John Allan nhận làm con nuôi. Cho dù cuộc sống vật chất giàu có, đầy đủ nhưng Poe luôn mặc cảm, đau khổ về thân phận côi cút của mình. Bà Allan rất tốt bụng nhưng ông Allan lại là một người độc đoán, cứng nhắc. Sau này, khi Poe đã trưởng thành, một lần nữa Poe bị cha nuôi bỏ rơi. Có lẽ ân huệ lớn nhất ông có được từ gia đình Allan chính là học vấn. Thời niên thiếu, Poe đã từng theo cha nuôi sang Anh năm năm. Đấy là thời của những trận chiến ở Waterloo, thời Napoléon bị đi đầy, thời Byron còn trai trẻ. Ngọn gió lãng mạn đang thổi lộng trên châu Âu. Cậu bé Edgar học ở một trường vùng ven London, bên một đường phố tĩnh lặng có những cây du cổ thụ. Phố này mọc bên lề một con đường còn giữ lại được từ thời La Mã cổ đại. Tất cả khung cảnh đó cùng với bầu trời tái ngắt của nước Anh đã lưu lại mãi mãi trong tâm hồn cậu bé mơ mộng. Sau này, vẻ đẹp của những công trình kiến trúc Châu Âu cổ kính, hoang tàn đã in dấu rất sâu đậm trong các tác phẩm của Poe. Năm 1820, Poe trở lại Virginia (Mỹ) và vào học một trường ở Richmond. Tuy không học hết đại học nhưng Poe đã làm nhiều người cùng trường ngạc nhiên vì trí nhớ phi thường, vì những lời lẽ lộn xộn nhưng độc đáo. "Đứa con rơi thiên tài" là tên gọi riêng mà các giảng viên và sinh viên đặt cho ông. Rất có thể Poe sẽ có những trang viết ấm áp, tràn trề sức sống hơn nếu như cuộc đời ông không chất chứa tang tóc, đau thương. Những người ông yêu quí đều lần lượt ra đi. Ngay cả Virginia, người vợ hiền yêu dấu cũng từ giã cõi đời rất sớm. Gần như cả cuộc đời Poe sống trong bần hàn, nghèo khó, nhưng vẫn giữ được "phẩm chất và phong độ tao nhã phi thường của một gentleman thực thụ" (1). Ngày 7 tháng 10 năm 1849, Edgar Allan Poe qua đời tại bệnh viện Washington. Những ngày tháng cuối cùng ông sống trong cô độc, nghèo khổ và nghiện ngập. Poe cảm thấy tuyệt vọng vì sự nghiệp của mình không được đánh giá đúng mức. Bản thân Poe là một nhà văn bị kích động ghê gớm trước những lời bình phẩm. Ông chờ đợi những bài viết khen ngợi mình với một vẻ "đói khát", còn khi bị bài bác thì nổi xung lên, ngay lập tức viết bài công kích lại. Đó cũng là nguyên nhân khiến ông bị nhiều đồng nghiệp văn chương tẩy chay, ghét bỏ. Trong những năm tháng lao đao, khốn khổ của đời mình ông cũng có những giờ phút đăng quang rạng rỡ. Tháng 10 năm 1833, Poe được tạp chí Vị khách ngày thứ bảy (Saturday Visitor) ở Baltimore trao giải cho một trong những truyện ngắn dự thi - Bản thảo tìm thấy trong chai (Ms. Found in a Bottle). Tác phẩm này đã gây chấn động dư luận. Poe đã khéo léo biến câu chuyện tưởng tượng (về một con tàu ma) của mình thành tự truyện của một người đi biển, được viết ra và lưu giữ trong chai. Ban biên tập khi đó đã đánh giá Poe rất cao, coi ông là một nhà văn "nổi trội nhờ một trí tưởng tượng man dại, mãnh liệt và thấm đẫm chất thơ, một phong cách sinh động, một năng lực sáng tạo dồi dào và vốn hiểu biết đa dạng, đáng ngạc nhiên..." (2). Poe được nhiều đồng nghiệp và bạn đọc đương thời hâm mộ, nhưng cũng không ít người ác cảm với những tác phẩm kiệt xuất, dị thường của ông. Giới văn chương Mỹ chính thống đã từng đánh giá Poe không cao. Ngay cả Walt Whitman cũng có những nhận định bất công về Poe, coi ông như một nhạc công chỉ biết chơi những phím chính của đàn Piano và không đại diện cho nền dân chủ Mỹ (3).
Trong quá trình sáng tác, Poe chịu nhiều ảnh hưởng từ tiểu thuyết Gothic (4), một thể loại văn học khá phổ biến ở Châu Âu thời đó. Tập truyện ngắn Những câu chuyện nghịch dị và kỳ lạ (Tales of the Grotesque and Arabesque) của Poe xuất bản cuối năm 1839 được nhiều nhà phê bình đương thời cho là ảnh hưởng văn học Đức quá rõ. Khi đó ông đã phản ứng lại khá mạnh. Poe đay đả: "Những nhà phê bình nhỏ mọn kia đã cố gắng hạ thấp tôi bằng cách la lối về chủ nghĩa Đức (Germanism) và những thứ nhảm nhí tương tự". Nhưng những gì Poe đã thực hiện trong cuốn sách lại khá mâu thuẫn với tuyên bố trên. Lời đề từ in ở trang đầu Poe đã trích nguyên văn tiếng Đức một câu thơ của Goethe. Trong lời tựa của cuốn sách Poe gọi những câu chuyện của mình như "những mẩu chuyện kỳ ảo" (phantasy-pieces), cách gọi này khiến nhiều người ngay lập tức nhớ đến cuốn Fantasiestucke (Những mẩu chuyện kỳ ảo") của nhà văn Đức E.T.A. Hoffmann. Nhưng Poe có quyền kiêu hãnh về tập sách của mình. Cho dù tác phẩm của ông ảnh hưởng Hoffmann rất sâu đậm nhưng trí tưởng tượng mãnh liệt của Poe đã đẩy những truyện ngắn của ông lên một đỉnh cao khác. Ngày nay, khi nhìn nhận lại, không ít nhà phê bình cho rằng tập truyện Những câu chuyện nghịch dị và kỳ lạ của Edgar Allan Poe và cuốn Những câu chuyện được kể hai lần (Twice-told Tales) của Nathaniel Hawthorne xuất bản hai năm trước đó là hai tập sách mà trí tưởng tượng cũng như kỹ thuật viết đạt đến đỉnh cao nhất trong văn học Mỹ (5). Tuy không phải là nhà văn Mỹ đầu tiên viết theo thể loại Gothic nhưng Poe đã vượt xa các bậc tiền bối, ông đã làm lu mờ tên tuổi của Charles Brockden Brown, nhà văn đã có công phát triển thể loại Gothic Mỹ trong thời kỳ hậu cách mạng (6).
Tài năng của Poe bộc lộ kiệt xuất ở cả hai lĩnh vực, thơ và truyện ngắn, nhưng có lẽ những truyện ngắn của ông gây ấn tượng mạnh hơn và được độc giả chú ý nhiều hơn. Có nhiều ý kiến cho rằng đa số truyện ngắn của Poe khá dài dòng. Nhiều trang văn phong cổ lỗ với không ít lời so sánh hoa mỹ sáo mòn. Cũng có thể do phải viết để kiếm sống nên Poe đã chủ trương viết dài và viết nhanh để có thu nhập cao hơn. Cho dù truyện ngắn của ông bố cục rất chặt chẽ nhưng những câu văn dài dòng thiếu trau chuốt cũng làm gai mắt nhiều bạn đọc khó tính. Không ít người đã tìm cách lược dịch một số truyện ngắn của ông cho dễ đọc hơn. Ở Việt Nam cũng thấy hiện tượng này, chẳng hạn truyện Sự sụp đổ của ngôi nhà dòng họ Usher (The Fall of the House of Usher) được xuất hiện dưới dạng lược dịch mà đọc lên hiệu quả rùng rợn không mất mát đi bao lăm. Nhà văn Jorge Luis Borges, một người hâm mộ Poe, cho rằng muốn thấy sự lớn lao của Poe cần phải xem xét toàn bộ văn nghiệp của tác giả này. Còn như đọc từng trang từng dòng thì thấy khối chỗ tầm thường, làng nhàng. Nhưng ngay sau đó ông lại đưa ra một cách đánh giá độc đáo khác: "Cái quan trọng nhất của văn nghiệp một nhà văn để lại là hình ảnh còn lại cuối cùng của nhà văn đó" (7). Nếu xét theo tiêu chí này thì Poe được tôn vinh ở mọi thời đại. Truyện ngắn của ông là một sự pha trộn tài tình. Trong một truyện trinh thám người ta có thế thấy những yếu tố kinh dị đan xen những tình tiết hài hước. Rồi thì trong một truyện kinh dị người ta lại thấy những ý tưởng ngộ nghĩnh của nhân vật hoặc giọng văn đôi chỗ rất hóm hỉnh. Ngoài ra bạn đọc còn thấy những tình tiết hé lộ những ý tưởng rất thực tiễn về khoa học, cụ thể hơn là y học. Lại có truyện có vẻ như thuần túy hài hước nhưng lại bộc lộ khá rõ tình trạng thần kinh không bình thường của nhân vật chính. Phân loại truyện ngắn của Poe là một công việc rất khó khăn. Có lẽ gọi chúng là những dị truyện thì thích hợp hơn cả vì chúng luôn vượt quá khuôn khổ nội dung của một câu chuyện thông thường, chúng luôn hướng tới sự độc đáo và gây nên những ấn tượng rất mạnh mẽ cho bạn đọc.
Dựa vào những truyện ngắn đặc sắc nhất của Poe có thể tạm chia truyện ngắn của ông thành ba dạng chính: kinh dị, trinh thám và rối loạn tâm thần. Lối viết cầu kỳ, sự giải thích tỉ mỉ, những sự kiện đặc biệt được diễn giải hợp lý đã làm tăng mạnh cảm giác rùng rợn trong những truyện ngắn của ông. Truyện kinh dị của Poe đậm đặc không khí chết chóc, rùng rợn, người đọc bị nhấn chìm vào một trạng thái kỳ lạ: thê lương, ủ dột, đôi khi là kinh hoàng. Những nhân vật ảm đạm của ông dường như không liên quan đến thực tại. Họ không bao giờ làm việc hay hoạt động xã hội. Họ thường tự chôn vùi mình trong những lâu đài tối tăm đổ nát được trang hoàng bằng những tấm thảm, màn rủ kỳ quái làm khuất dạng thế giới của ánh nắng, cây cỏ và những ô cửa sổ thoáng đãng. Những căn phòng ẩn khuất chứa đựng thư viện cổ xưa, nhiều tác phẩm nghệ thuật kỳ lạ và đồ vật phương Đông quí giá. Những nhà quí tộc chơi các nhạc cụ hay đọc sách cổ xưa trong tâm trạng buồn thảm vì cái chết của người thân (*). Sự sụp đổ của ngôi nhà dòng họ Usher là một trong những truyện ngắn kinh dị tiêu biểu. Những truyện kinh dị gây cảm giác u ám, rợn ngợp, bí ẩn của Poe có khá nhiều như Nàng Legiea (Legiea), Mặt nạ tử thần đỏ (The Masque of the Red Death), Bản thảo tìm thấy trong chai (MS. Found in a Bottle), Tụt xuống xoáy nước Maelstrom (A Descent into the Maelstrom)... Chúng dự báo trước sự ra đời của những nhà văn Mỹ viết chuyện rùng rợn, kỳ lạ như H.P. Lovecraft, Stephen King. Những truyện trinh thám thiên về suy luận,diễn giải như Bọ rầy vàng óng ánh (The Gold Bug), Lá thư bị đánh cắp (The Purloined Letter), và Án mạng trên phố Morgue (Murders in the Rue Morgue) lại báo hiệu cho sự xuất hiện những tác phẩm trinh thám của Dashiell Hammett, Raymond Chandler, Ross Mac Donald, John D. MacDonald. Đây là những truyện ngắn được đông đảo bạn đọc ưa thích vì khá ly kỳ và gây nhiều hồi hộp... Trong những truyện ngắn trinh thám của mình, Poe gài đặt các chi tiết rất chặt chẽ, chính xác. Tất cả được tính toán tỉ mỉ, kỹ càng khiến độc giả thoả mãn, những chi tiết bí ẩn, khó hiểu được soi sáng dần và loé sáng ở đoạn kết (thường là rất độc đáo). Là cha đẻ của thể loại văn học trinh thám, Poe đã mở đầu cho một trong những hình thức truyền thống của thể loại này: "Bí ẩn phải được khám phá bằng trí tuệ, bằng những cách thức của tư duy" (8). Và nhân vật Dupin của Poe chính là hình mẫu cho Sherlock Holmes của Conan Doyle sau này. Qua loạt truyện trinh thám có thể thấy Poe nắm rất vững "gu" của công chúng, đó cũng là lý do khi làm báo ông đã giúp số lượng phát hành tăng vọt. Trong đời mình Poe đã từng gắn bó với nhiều tờ báo như Southern literary messenger, Gentlemen's Magazin, Mirror, Broadway Journal... Đây chính là nơi mà Poe đã đăng không biết bao nhiêu thơ, truyện ngắn và những bài phê bình, điểm sách. Cũng chính những tin tức sống động đăng tải hàng ngày trên báo chí đã cung cấp cho Poe rất nhiều chi tiết cũng như ý tưởng cho những truyện ngắn trinh thám, kinh dị. Như Điều bí ẩn về Marie Rogers (The Mystery of Marie Rogers) chẳng hạn. Để viết truyện này Poe đã phải dựa vào rất nhiều chi tiết của vụ giết người không tìm ra thủ phạm được đăng tải ầm ĩ vào mùa hè năm 1844, nạn nhân là cô gái 21 tuổi mang tên Mary Rogers.
Một số truyện ngắn khác của Poe lại đi sâu vào trạng thái thần kinh bệnh hoạn của những phạm nhân giết người do rối loạn tâm thần. Bạn đọc nhiều người sẽ rất ngạc nhiên vì không hiểu sao Poe lại lột tả khá chính xác những trạng thái rối loạn này. Trong Trái tim vạch tội (Tell-tale Heart), nhân vật chính tìm mọi cách giết ông lão hàng xóm với một lý do thật vô lý và buồn cười. "Theo tôi mọi sự chỉ tại ánh mắt của lão. Vâng, chính nó. Rõ thế rồi! Một bên mắt của lão giống mắt của loài kền kền - một con mắt xanh lợt lạt có màng phủ lên. Bất cứ lúc nào nó xói vào tôi là máu trong người đông cứng lại. Từng bước một, dần dần tôi đi đến quyết định phải giết lão, có thế tôi mới tự giải thoát mình khỏi ánh mắt đó vĩnh viễn"(9). Nhằm thực hiện điều này gã phải mất một tuần để cư xử hết sức tử tế với nạn nhân. Suốt bảy đêm gã tìm cách mò vào phòng ngủ của nạn nhân một cách hết sức khó khăn nhưng lại không ra tay vì nạn nhân không hề hé mắt. Gã cho rằng lão hàng xóm không đáng ghét mà chính con mắt quái gở của lão mới làm gã điên tiết. Vào đêm thứ tám gã đã thực hiện được ý đồ vì nạn nhân bỗng mở to mắt kinh hoàng. Và bằng cảm giác gã nghe thấy tiếng tim đập sợ hãi của nạn nhân, nó khiến gã thêm phẫn nộ vì nghe cứ như "tiếng trống thúc quân ra trận". Vụ giết người được thực hiện nhanh chóng. Để chứng tỏ mình không điên và biết tính toán khôn ngoan, gã đã chặt nhỏ tử thi, cắt rời đầu và chân tay nhét dưới ván sàn rồi xóa hoàn toàn dấu vết. Đến bốn giờ sáng ba nhân viên an ninh vào nhà vì một người hàng xóm nghe tiếng la thất thanh trong đêm. Mọi đấu vết đã được xóa sạch nên chẳng ai nghi ngờ gì, gã tự tin dắt mọi người tới chính căn phòng của ông già. Mọi việc sẽ diễn ra suôn sẻ nếu như trong tai gã không vang lên những âm thanh khó chịu mà gã cho rằng đó chính là nhịp đập của trái tim nạn nhân. Âm thanh đó ngày một lớn hơn khiến gã không chịu nổi, gã cho rằng những nhân viên an ninh cũng nghe thấy nhưng giả tảng không biết mà vẫn cười nói để lừa dối gã. Cuối cùng gã hét lên: "Đừng giả vờ nữa! Tôi nhận tội đấy! Đây, đây này! Trái tim tởm lợm của lão già vẫn đang đập đấy" (10). Trạng thái tâm thần bồn chồn, hoảng loạn như vậy còn được mô tả khá kỹ lưỡng trong Con mèo đen (Black Cat). Diễn biến bệnh trạng tâm thần của nhân vật chính xảy ra như sau: 1- Vui vẻ, yêu vợ, yêu súc vật đặc biệt là chú mèo đen Pluto. 2- Bắt đầu cáu gắt và ngày càng khó chịu với mọi vật xung quanh, xử sự thô bạo với vợ, hành hạ động vật. 3- Chọc mù mắt mèo Pluto, sau đó giết và treo lên cành cây. 4- Ân hận vì đã giết mèo, đem về nhà một chú mèo đen khác. Lại bắt đầu muốn giết mèo. 5- Cầm rìu giết mèo, vợ ngăn lại, tức quá bổ rìu vào đầu vợ, chôn vợ vào trong ngách tường hầm. Kết thúc của câu chuyện khá giống với Trái tim vạch tội nhưng có phần kỳ quái hơn. Cảnh sát đến điều tra, lục soát kỹ lưỡng. Kẻ sát nhân tỏ ra rất bình tĩnh khiến họ không nghi ngờ gì. Nhưng trước khi họ ra đi hắn bỗng thốt lên: "Tôi có thể nói rằng đây là một ngôi nhà được xây dựng hết sức kiên cố. Những bức tường này - các ngài đang tính ra về sao? Những bức tường này được gắn vào nhau rất chắc chắn" (11). Và với một "lòng can đảm điên rồ" hắn đã gõ mạnh cây gậy vào bức tường nơi chôn xác vợ hắn. Lập tức một tiếng tru gào rùng rợn, thảm thiết như tiếng khóc của con trẻ vọng ra. Hoá ra hắn đã vô tình chôn sống con mèo cùng với thi thể người vợ tội nghiệp. Đại đa số độc giả sau khi đọc những truyện ngắn về tội phạm tâm thần đều cho rằng Poe đã từng bị điên hoặc ông có sự nhạy cảm phi thường nên mới mô tả được chính xác từng cấp độ tăng dần của các chứng loạn thần kinh. Từ một số nguồn tư liệu đáng tin cậy, những nhà nghiên cứu văn học đã biết được lúc đương thời, Poe đã có tìm hiểu qua thực tế và sách vở căn nguyên và diễn biến của một số chứng bệnh tâm thần bắt đầu lan rộng trong xã hội(12).
Một số truyện ngắn khác của Poe lại dự báo về những thành tựu y học sau này. Người đàn ông được phẫu thuật triệt để (The Man that Was Used Up) là một chuyện hài nhưng lại là một ý tưởng rất thú vị về phẫu thuật chỉnh hình, một chuyên ngành y khoa đã phát triển rất mạnh mẽ trong thế kỷ XX. Tướng quân Smith là một người đàn ông đẹp đẽ với "bộ ngực tuyệt vời nhất" rất cân đối với đôi bờ vai "hoàn hảo". Thế nhưng tất cả chỉ là đồ giả. Trong một trận chiến trước đó ông đã bị kẻ địch tra tấn đến mức tất cả các bộ phận trên thân thể đều biến dạng, thậm chí lưỡi cũng bị cắt. Thế nhưng những bác sĩ phẫu thuật tài ba đã biến ông trở thành một gã đàn ông mười phân vẹn mười tuy tất cả các bộ phận đẹp đẽ ấy chỉ là đồ giả. Đêm đến, sau khi tháo bỏ những phụ tùng thay thế kỳ diệu kia ông lại trở thành một người tàn phế dị dạng. Truyện ngắn Sự thật về trường hợp của Valderma (The Facts of M. Valdermar's Case) lại dự báo một thành tựu y học khác, phân tâm học. Valderma được các bác sĩ dự đoán là sẽ chết vào đêm chủ nhật, nhưng nhờ một người bạn thôi miên nên linh hồn ông đã nấn ná thêm nơi thể xác được thêm bảy tháng. Cho đến khi cuộc thôi miên kết thúc, Valderma chính thức qua đời, thân xác ông thối rữa ngay lập tức vì nó đã phải tồn tại trái với tự nhiên trong một thời gian quá dài. Đây là một chuyện gây cảm giác rùng rợn nhưng những cuộc hội thoại giữa người thôi miên và bệnh nhân khiến cho bạn đọc ngày nay thấy rất gần với liệu pháp thôi miên và ám thị của các bác sĩ tâm lý.
Ở mọi thể loại Poe đều khai thác trạng thái tâm lý, sự thấu hiểu tâm lý sâu kín xuyên suốt những tác phẩm. Ông đã phản ánh được trong tác phẩm của mình trạng thái tâm lý nhiễu loạn của nhân vật. Sự văn minh hóa quá tải đã làm thương tổn đời sống nội tâm của đại bộ phận dân chúng Mỹ. Nỗi lo âu tiềm ẩn và đời sống tinh thần bất an đường như xuất hiện ở nước Mỹ sớm hơn Châu Âu. Ít nhất, những người Châu Âu đã có một cơ cấu, tổ chức xã hội phức tạp, chắc chắn và điều này cho họ một tâm lý an toàn. Tại Mỹ lúc đó không có bảo hiểm xã hội, mạnh ai nấy sống. Poe đã miêu tả chính xác mặt trái của giấc mơ Mỹ, giấc mơ của những cá nhân đầy tự lập và thành đạt. Thế nhưng cái giá của chủ nghĩa vật chất và sự cạnh tranh thái quá cũng thật khủng khiếp - sự cô đơn, cách biệt, những tín hiệu bất ổn và mang lại cảm giác chết chóc luôn lơ lửng trong đời sống nội tâm của mọi thành viên trong xã hội. (13)
Để khai thác được triệt để những khía cạnh kỳ lạ, khác thường của diễn biến tâm lý, Poe đã nỗ lực miêu tả sự điên loạn và trạng thái cảm xúc dâng lên tới cực điểm. Sự kết hợp giữa trạng thái suy đồi (decadence) (14) với nguyên thủy lãng mạn (romantic primitivism) của Poe đã quyến rũ những nhà thơ Châu Âu mãnh liệt, đặc biệt là những nhà thơ tượng trưng ở Pháp. Thế nhưng Poe không phải là một nhà văn xa lạ với phong cách Mỹ mặc dù ông là người ghê sợ nền dân chủ Mỹ theo quan điểm của giới quí tộc Mỹ thời đó. Trái lại, ông gần như là một ví dụ tiêu biểu cho dự đoán của Tocqueville (15) vì Tocqueville cho rằng dân chủ Mỹ sẽ tạo ra những tác phẩm dẫn đến sự bóc trần, phanh phui những góc sâu kín nhất của tâm lý con người.
Khuynh hướng "suy đồi" của Poe cũng phản ánh sự xuống dốc của những biểu tượng nghệ thuật xuất hiện trong thế kỷ XIX. Đó là sự pha trộn các loại hình nghệ thuật một cách lộn xộn từ nhiều miền, nhiều thời kỳ, vắt kiệt bản sắc khiến chúng tầm thường hơn so với mẫu gốc với mục đích trang trí đơn thuần trong một loạt tác phẩm. Sự hỗn độn về phong cách ở Mỹ đặc biệt rõ. Đây là một quốc gia có những vùng đất phì nhiêu đầy hứa hẹn, chính thế nó đã tạo ra những làn sóng nhập cư ồ ạt đổ về từ mọi châu lục hình thành nên một xã hội đa văn hóa. Đó cũng là lý do khiến nơi đây thường xuyên thiếu vắng những phong cách nghệ thuật truyền thống của chính quốc. Cho tới ngày nay sự hỗn độn này vẫn được thể hiện rất rõ trong những bộ phim Mỹ ăn khách như Indianna Jones, Bí mật ngôi mộ cổ... Các đạo diễn đã không ngần ngại đưa những câu chuyện huyền bí của phương Đông hay những nghi lễ thờ cúng thiêng liêng của người da đỏ vào những bộ phim hành động tràn ngập vũ khí hiện đại nhằm kích thích sự hiếu kỳ của khán giả. Vào thời của Poe, sự hỗn độn về phong cách này đã phản ánh sự mất mát những hệ thống tư duy mạch lạc. Nhập cư, đô thị hóa, công nghiệp hóa đã nhổ bật gốc những nền tảng gia đình vững chắc và nếp sống bao đời. Trong nghệ thuật, sự hỗn độn những biểu tượng nghệ thuật này đã cung cấp cho Poe ý tưởng về sự kỳ dị, một ý tưởng xuyên suốt trong những truyện ngắn kinh điển của Poe. (**)
Ở Việt Nam, nhìn chung, đại đa số độc giả chỉ biết đến Poe như một nhà văn trinh thám, kinh dị mà chưa biết đến tài năng thi ca của ông. Nhiều nhà lý luận phê bình văn học phân vân không biết xếp ông vào hàng ngũ nhà văn hay nhà thơ. Thậm chí có những ý kiến cho rằng tác phẩm văn học trình làng đầu tiên của Poe năm 1827 là tập thơ Tamerlan và những bài thơ khác (Tamerlane and Other Poems) và với tác phẩm cuối cùng trước khi mất là bài thơ Những quả chuông (Bells) thì hiển nhiên ông phải là một nhà thơ. Cho dù Poe đã để lại cho đời nhiều truyện ngắn cực kỳ đặc sắc nhưng chúng cũng không thể làm lu mờ thành tựu thơ của ông, trong đó có những thi phẩm đạt đến "vô song trác tuyệt". Cũng như nhiều nhà thơ miền nam khác, thơ ông giàu tính nhạc và vận luật rất chặt chẽ. Những bài thơ được biết đến nay khoảng chừng hơn 70 bài. Con quạ, Những quả chuông, Gửi Hellen... là những tác phẩm được in đi in lại nhiều nhất. Cũng có khá nhiều bài được đánh giá là "thường thường bậc trung" vì trạng thái cảm xúc cũng như chủ đề na ná giống nhau, tràn ngập nỗi sầu muộn, thống khổ, những so sánh, liên tưởng sáo mòn giống như nhiều tác phẩm lãng mạn thời đó. Nhưng ngay ở những bài thơ không nổi đình đám này đôi khi vẫn lóe lên những vần thơ tràn ngập ấn tượng và ám gợi. Giống như truyện ngắn, thơ của Poe cũng tràn đầy bí ẩn, rợn ngợp, đó là thế giới nhập nhoạng giữa cõi sống và cõi chết. Một số bài thơ giống như những câu chuyện kỳ dị, người kể chuyện (ngôi thứ nhất) là loại nhân vật tự hủy hoại mình trong buồn thương, tuyệt vọng. Con quạ là bài hay nhất trong số những bài thơ tự sự này. Trước khi viết Con quạ, tên tuổi Poe cũng đã được biết đến vì những truyện ngắn hay và những bài bút chiến "long trời lở đất" với phe phái của Henry Wadsworth Longfellow. Nhưng phải đến khi bài thơ Con quạ ra đời thì danh tiếng của Poe mới thực sự vươn đến tầm cao vượt xa những gì đã đạt được từ trước. Bài thơ được in trên tờ Mirror số ra ngày 29 tháng 2 năm 1845. Trong bài giới thiệu của Nathaniel Parker Willis, một người bạn của Poe và cũng là một văn nhân có tên tuổi thời đó thì đây là một bài thơ "vô song trong thơ ca Anh ngữ vì ý niệm tinh tế, vì tài nghệ thi học điêu luyện và vững chắc, tài nghệ này duy trì được cao hứng của trí tưởng tượng" (16). Sau hàng thế kỷ bài thơ Con quạ vẫn ngự trị trong trí nhớ của không biết bao nhiêu độc giả trên toàn thế giới. Nó được biết đến rộng rãi từ khi Poe còn sống và cho đến ngày nay, Con quạ vẫn được đánh giá là một tác phẩm thi ca tuyệt đỉnh. Trong bài thơ (gồm nhiều khổ thơ), người kể chuyện (ngôi thứ nhất) thao thức trong cảm giác rờn rợn, anh ta đang đọc sách và đau buồn về "nàng Lenore đã mất". Vào lúc nửa đêm, một con quạ, loài chim hiện thân cho tang tóc, hắc ám bất chợt bay đến đậu trên cánh cửa. Nó lặng thinh, cô độc, chỉ lặp đi lặp lại điệp khúc "nevermore" (không bao giờ nữa) ở 11 khổ thơ cuối. Có thể coi điệp khúc "Nevermore" là sáng tạo tuyệt vời nhất trong bài thơ. Từ này khi ngân lên vừa âm u, sầu muộn lại vừa tuyệt vọng, nhất là lại được bật lên từ một con quạ lạ lùng, cổ quái. Nó chính là linh hồn của bài thơ. Không phải vô cớ mà một độc giả tại NewYork thời đó cho rằng như bị "nhiễm điện bởi tiếng kêu kỳ lạ, huyền bí nevermore"(17). Và chỉ riêng cụm từ "nevermore" này thôi đã đủ bao trùm lên bài thơ một sắc màu thê lương tuyệt vọng, một cảm giác xa lìa mãi mãi. Khổ cuối của bài thơ là một kết thúc rất độc đáo cho một câu chuyện cũng rất đặc biệt. Poe cho rằng bắt đầu từ đây con quạ cổ quái kia đã trở thành "biểu tượng của Hồi ức đau buồn và bất tận" (18).
Chú thích:
(1) Xem Edgar Allan Poe, Truyện kinh dị, phụ lục, Nxb Lao động, tháng 3/1989 (Rút từ Pautopxki, Những người gần và những người xa, Edgar Allan Poe, Nxb "Cận vệ trẻ", Moxkva, 1967).
(2) Kenneth Silverman, Hồi ức đau buồn và bất tận (Mournful and never-ending remembrance), Nxb Harper Collins (New York),1991, tr.90.
(3) Luis Borges, Luis Borges, Những cuộc nói chuyện, Truyện trinh thám, Nxb Emecé, 1997, Ngô Tự Lập dịch.
(4) Một phong cách tiểu thuyết xuất hiện tại Châu Âu nửa sau thế kỷ XVIII. Các nhà văn Gothic thường đưa vào tác phẩm những bối cảnh kỳ quái, hoang vu, bí ẩn nhằm khuấy động tâm lý và gây hồi hộp cho độc giả.
(5) Xem Kenneth Silverman, sđd, tr.154, 155.
(6) Xem Hoàng Tố Mai, Văn học Mỹ thời kỳ sau độc lập, Tạp chí Văn học số 7-2000.
(7) Hoàng Ngọc Hiến, Ghi chú về Jorge Luis Borges, tạp chí Hữu Nghị, số ra tháng 12 năm 1999, tr.47.
(8) (9) Edgar Allan Poe, Những câu chuyện tưởng tượng và bí ẩn (Tales of mystery and imagination), Wordsworth Editions Limited xuất bản, 1993, tr.148, tr.163, tr.17, tr.69.
(10) Xem Jorge Luis Borges, Sđd.
(11) (12) Edgar Allan Poe, Sđd, tr.221, tr.225, tr.196.
(13) Edgar Allan Poe, Sđd, tr.221, tr.225, tr.196.
(14) Xem Walter Blair. James R.Giles. Morris Dickstein, Bài mục Edgar Allan Poe, ENCYCLOPAEDIA BRITANNICA CD 2.0 1995.
(15) Kathryn VanSpancken, Sđd, tr.42.
(16) (17) Xem Kenneth Silverman, Sđd, tr.237.
(18) Edgar Allan Poe, Toàn tập tác phẩm của Edgar Allan Poe ( The Unabridged Edgar Allan Poe), tiểu luận Triết lý về soạn tác, Nxb Running Press,1983, tr. 1089.
(*) Kathryn VanSpancken, Văn học Mỹ đại cương (An outline of America literature), Thông tấn xã Hoa Kỳ xuất bản, 1994, phần Edgar Allan Poe, tr.41.
(**) Thuật ngữ này được sử dụng từ khi trào lưu văn học suy đồi (decadence) xuất hiện và phát triển mạnh tại Pháp và Anh cuối thế kỷ XIX. Những tác giả quan trọng thuộc trào lưu văn học này (Paul Verlaine, Charles Baudelaire, Jules Laforgue...) chủ trương duy mỹ thuần túy, chú trọng kỹ thuật ngôn từ và tìm kiếm những cảm giác mới lạ.