Trong văn bản giải thích có nói: “Sau khi cân nhắc một trong 3 giải pháp: Thêm số cho thuê bao di động từ 6 số lên 7 số, mở thêm mã mới cho mạng và thêm số mã mạng di động từ 2 số lên 3 số, VNPT quyết định chọn phương án đổi số, từ 6 số lên 7 số”. Văn bản chưa lý giải được vì sao chọn phương án này.
Có phải tăng số chỉ vì thẻ đã được đặt trước?
Tuy nhiên, ngày 9/3, trong văn bản số 1098 gửi bưu điện các tỉnh, thành, hai nhà cung cấp dịch vụ ĐTDĐ GPC và VMS, Cục Bưu điện Trung ương, VNPT đã hướng dẫn cách giải thích lý do vì sao phải đổi số ĐTDĐ để các đơn vị nêu trên trả lời cho khách hàng. Theo đó: “6 chữ số thuê bao như hiện nay chỉ tối đa có thể phát triển 800 nghìn thuê bao (đã trừ các đầu 0 và 1 sử dụng cho mã dịch vụ đặc biệt). Số lượng thuê bao tính đến ngày 23/2 đã là 860.240 số. Thực tế số thẻ thuê bao trả trước, trả sau đã phát hành sẵn sàng phục vụ cho khách hàng đã chiếm một lượng kho số. Như vậy, việc phát triển thuê bao trong thời gian tới sẽ rất hạn chế, trong khi nhu cầu sử dụng dịch vụ này là rất lớn”.
Một quan chức thuộc VNPT cũng đã thừa nhận, thường khi hợp đồng nhập thẻ, đã có sẵn đầu số 090 hoặc 091, khi khách hàng có nhu cầu, chỉ cần nạp thêm các số đuôi và bán cho khách hàng mà thôi.
Hợp đồng là do khách hàng buộc phải ký bởi thế độc quyền của VNPT
Giải thích câu hỏi “Việc đổi số ảnh hưởng tới khách hàng, vậy khách hàng có được bồi thường thiệt hại do việc đổi số gây ra hay không?”, VNPT đã dẫn Điều 27 của Thể lệ Dịch vụ viễn thông trên mạng điện thoại công cộng, ban hành theo Quyết định 953/2000/QĐ-TCBĐ ngày 17/10/2000 của Tổng cục Bưu điện như sau: “Trong trường hợp đơn vị cung cấp dịch vụ chủ động đổi số thuê bao theo kế hoạch đánh số và kế hoạch phát triển mạng lưới đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt, thì đơn vị cung cấp dịch vụ phải thông báo trước ít nhất 60 ngày cho chủ thuê bao..., chịu mọi chi phí về việc đổi số, nhưng không phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại gián tiếp do việc đổi số gây ra cho chủ thuê bao”.
Như vậy, ngành bưu điện cũng thừa nhận sự thiệt hại (dù gián tiếp) của khách hàng khi đổi số điện thoại. Nhưng trong bản hợp đồng cung cấp và sử dụng dịch vụ mà VNPT buộc khách hàng ký lại năm 2000 có một câu mới được bổ sung ở Điều 3 là: “Trong trường hợp cần thiết, bên B (bên cung cấp dịch vụ) có thể thay đổi số máy thuê bao của bên A (bên yêu cầu cung cấp dịch vụ)”. Bây giờ, trong văn bản 1098 hướng dẫn trả lời khách hàng, VNPT lại lấy Điều 3 của hợp đồng với khách hàng để giải thích cho các thuê bao và xem đó như là căn cứ để buộc khách hàng phải chịu đổi số mà không thể nào phản ứng được.
Theo Thanh Niên, 21/3