Luật sư tư vấn
Theo điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình, tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 điều 40 của luật này.
Tài sản chung cũng gồm cả tài sản mà vợ chồng được thừa kế, tặng cho chung, và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
Khoản 1 điều 29 luật này quy định vợ, chồng bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa vụ trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; không phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao động có thu nhập. Ngoài ra, khoản 1 điều 35 luật này còn quy định việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận.
Với các quy định nói trên, vợ chồng có quyền bình đẳng trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung dựa trên nguyên tắc thỏa thuận. Do vậy, việc chồng bạn tự ý sử dụng tài sản chung của vợ chồng để chu cấp, mua tài sản cho người thứ ba thì không những trái pháp luật mà còn trái đạo đức xã hội. Bạn có quyền khởi kiện, yêu cầu tòa án nhân dân có thẩm quyền xem xét, tuyên giao dịch tặng cho vô hiệu.
Theo điều 6 của Bộ luật Tố tụng dân sự, đương sự có quyền và nghĩa vụ chủ động thu thập, giao nộp chứng cứ cho tòa án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Do vậy, bạn phải chứng minh được việc chồng bạn đã sử dụng tài sản chung của vợ chồng để tặng cho người khác.
Trường hợp bạn không thể thu thập được chứng cứ thì bạn có thể yêu cầu tòa án thu thập thay. Tuy nhiên, tòa án chỉ tiến hành thu thập, xác minh chứng cứ trong những trường hợp do Bộ luật này quy định.
Luật sư Vũ Tiến Vinh
Công ty luật Bảo An, Hà Nội