![]() |
Ralf Schumacher trên chiếc xe FW25. |
Bản thân Frank Williams cũng được Nữ hoàng Anh tấn phong danh hiệu Hiệp sỹ năm 1999, để ghi nhận những đóng góp của ông cho thể thao nói chung và F1 nói riêng.
Mặc dù đã tham gia chế tạo xe đua từ năm 1969, thành công chỉ thực sự bắt đầu đến với Frank Williams khi ông hợp tác cùng chuyên gia kỹ thuật tài năng Patrick Head năm 1976. Chiếc xe FW07 do Patrick Head thiết kế đã mang lại chiến thắng đầu tiên cho đội đua Williams tại chặng Silverstone năm 1979. Ngay năm sau, tay đua Alan Jones đã mang về cho Williams cả danh hiệu vô địch cá nhân lẫn vô địch đội đua. Năm 1981, Williams vẫn giữ được danh hiệu đội vô địch, nhưng để lọt danh hiệu cá nhân vào tay Nelson Piquet của đội Brabham. Năm 1982, tay đua Keke Rosberg đoạt vương miện cá nhân nữa cho Williams.
Nhưng Williams đã vấp phải nhiều khó khăn ở những năm tiếp theo. Đội gặp nhiều lúng túng khi chuyển sang sử dụng động cơ turbo rất thịnh hành lúc bấy giờ. Việc hợp tác với hãng Honda bắt đầu mang lại những chiến thắng từ giữa thập kỷ 80. Với chiếc FW10 được chế tạo từ sợi carbon tân tiến nhất lúc bấy giờ, Williams đã chiến thắng ở 3 chặng cuối cùng của mùa giải 1985, báo hiệu một thời kỳ thành công mới cho đội đua.
Năm 1986, Williams trở thành nhà vô địch. Năm 1987, Williams bảo vệ thành công chức vô địch, đồng thời tay đua Nelson Piquet cũng mang về cho đội danh hiệu vô địch cá nhân. Cặp đua Nelson Piquet - Nigel Mansell của Williams thay nhau thống trị các đường đua năm đó, chiến thắng ở 9/16 chặng. Tuy nhiên, đến cuối mùa giải, Honda thông báo sẽ chuyển sang hợp tác với McLaren từ mùa giải 1988. Williams lại bước vào một thời kỳ khó khăn mới.
Williams bắt đầu lấy lại danh tiếng khi hợp tác với hãng Renault, cùng sự trở lại của tay đua Nigel Mansell vào năm 1991 và đặc biệt là sự có mặt của nhà thiết kế xe đua hàng đầu Adrian Newey vào năm 1992. Chiếc xe FW14B năm 1992 của đội Williams do Newey thiết kế lập tức thống trị đường đua F1. Nigel Mansell về nhất liên tiếp 5 chặng đầu tiên năm 1992, rồi cuối cùng mang về cho Williams chức vô địch kép.
Năm 1993, do không thống nhất được các điều khoản hợp đồng, Nigel Mansell ra đi, Alain Prost về thay Mansell, tiếp tục chuỗi các thắng lợi của Williams, giúp Williams giành cú đúp một lần nữa. Prost giải nghệ vào cuối năm 1993, nhường chỗ cho Ayrton Senna. Những tưởng Senna sẽ giúp Williams đoạt nhiều thắng lợi hơn nữa, nhưng thật không may, ngay ở chặng đua thứ 3, San Marino, Senna đã tử nạn khi đâm xe vào hàng rào bê tông ở khúc cua Tamburello lúc đang dẫn đầu cuộc đua. Các thủ tục pháp lý liên quan đến tai nạn thảm khốc này đã theo đuổi đội Williams cùng các nhân vật chủ chốt của đội lúc bấy giờ cho đến tận ngày nay.
Mất Senna, Williams lại có một ngôi sao mới - Damon Hill. Từ một tay đua thử nghiệm năm 1993, Damon Hill nhanh chóng trở thành tay đua số 1 của đội vào năm 1994, chỉ chịu nhường chức vô địch năm đó cho Michael Schumacher (hồi đó thi đấu cho đội Benetton), sau một va chạm gây nhiều tranh cãi với chính tay đua người Đức ở chặng Adelaide. Damon Hill cùng Williams lại thua tiếp Michael Schumacher và Benetton năm 1995, nhưng cuối cùng đã đoạt được chiến thắng kép vào năm 1996, khi Schumacher đã chuyển sang Ferrari. Tay đua Jacques Villeneuve mới chuyển sang từ giải CART cũng về thứ nhì chung cuộc ngay ở mùa giải F1 đầu tiên của mình năm 1996, và sau đó trở thành vô địch thế giới năm 1997.
Hàng loạt thay đổi xảy ra với Williams sau mùa giải 1997: hãng Renault rút lui khỏi giải F1, ngôi sao Jacques Villeneuve đi tìm những thử thách mới với đội BAR, chuyên gia Adrian Newey chuyển sang McLaren. Đội Williams như bị rút ruột. Suốt 3 năm liền từ 1998 đến 2000, đội không kiếm được một chiến thắng nào, có lúc tụt xuống tới vị trí thứ 5 chung cuộc.
Sau 2 mùa vật lộn ở giữa bảng xếp hạng, năm 2000 đánh dấu một mốc quan trọng trong lịch sử đội Williams, khi họ chính thức hợp tác với hãng BMW. Frank Williams cũng có một quyết định mạo hiểm khi đưa về tài năng trẻ 20 tuổi Jenson Button để đua cặp cùng cựu binh Ralf Schumacher. Tuy vẫn còn đó một khoảng cách khá xa với 2 đội dẫn đầu Ferrari và McLaren, khuôn mặt của Frank Williams và Patrick Head có lẽ đã giãn ra rất nhiều. Ngay từ mùa giải đầu tiên tham gia F1, động cơ BMW đã tỏ ra không thua kém nhiều những động cơ hàng đầu lúc bấy giờ của Mercedes và Ferrari. Tay đua Jenson Button tuy còn trẻ và ít kinh nghiệm cũng đã thi đấu rất chững chạc, không ít lần đã qua mặt cả đàn anh Ralf Schumacher.
Sang mùa giải 2001, Frank Williams cho đội Renault mượn tay đua trẻ Jenson Button trong 2 năm để đưa về ngôi sao của giải CART là Juan Pablo Montoya (người Colombia). Tuy vẫn còn không ít lần phải bỏ cuộc giữa chừng do trục trặc kỹ thuật, Williams vẫn có một bước tiến lớn, đứng thứ ba chung cuộc, thua đội thứ nhì McLaren 22 điểm nhưng hơn đội thứ tư Sauber tới 59 điểm.
Với đà tiến đó, Williams vươn lên chiếm vị trí thứ 2 của McLaren trong mùa giải 2002, với Juan Pablo Montoya và Ralf Schumacher đứng vị trí thứ 3 và thứ 4 bảng xếp hạng chung cuộc các tay đua. Đồng thời động cơ BMW cũng được nhiều chuyên gia tán dương là có công suất lớn nhất và tốc độ vòng tua cao nhất giải F1. Tuy nhiên, đội Williams vẫn rất thất vọng khi chỉ chiến thắng duy nhất một chặng mùa giải này, đồng thời khoảng cách với đội dẫn đầu Ferrari ngày càng giãn rộng. Với mẫu xe FW25 được thiết kế mới hoàn toàn, Williams hy vọng sẽ thu hẹp đáng kể khoảng cách với Ferrari trong mùa giải 2003.
Một số thông số về đội đua Williams | |
Tên đầy đủ | BMW WilliamsF1 Team |
Bắt đầu tham gia F1 | 1973 |
Vô địch các đội đua | 9 lần |
Vô địch cá nhân | 7 lần |
Số chặng đã tham gia | 496 |
Số lần chiến thắng | 108 |
Tổng số điểm | 2203,5 |
Các tay đua (2003) | Juan Pablo Montoya (Colombia) Ralf Schumacher (Đức) |
Một số thông số về chiếc xe FW25 (2003) | |
Động cơ: BMW P83 (V10, 90º, 2998cc) Hộp số: WilliamsF1 Khung: Carbon/Epoxy composite Lốp: Michelin Phanh: AP Racing Tản nhiệt: 2 bộ tản nhiệt dầu, 2 bộ tản nhiệt nước Dầu bôi trơn: Castrol Trọng lượng: 600 kg kể cả người lái |
Đ. H. (theo F1-Live và Formula One)