Trần Nhật Lý -
Nhưng chẳng sao, "việc đã lỡ rồi, coi như vận xấu, đi buôn lỗ vốn". Rồi ra, chỉ còn lại những đối thoại rời rạc, nhạt nhẽo giữa những người khách vãng lai tình cờ gặp nhau trên một chuyến đò. Chuyện có vậy, cần gì phải huy động cả một dàn nhân vật gồm nhà sư, nhà giáo, nhà thơ, hai tên buôn đồ cổ, hai mẹ con, một cặp tình nhân, tên cướp và chị lái đò. Mười một con người, mười một gương mặt mờ nhạt. Theo tiêu chí của chủ nghĩa hiện thực truyền thống, đó là những nhân vật không đạt yêu cầu cả khái quát hóa lẫn cá biệt hóa. Nhưng Nguyễn Huy Thiệp đâu có miêu tả nhân vật. Người trên đò là một tập hợp đủ các thành phần nam phụ lão ấu, quân tử tiểu nhân, thiện và ác... Rõ ràng chuyến đò là sự mã hóa chúng sinh hữu tình trôi lăn theo bánh xe sinh tử luân hồi. Có khác chăng so với chúng sinh trong kinh luận Phật giáo thì đó là chúng sinh có xe máy, có còng số 8, có lưỡi lê, có bọn buôn đồ cổ, có nhà thơ đại vọng ngữ, có nhà giáo nguyền rủa đạo lý... Nói tóm lại, đó là chúng sinh thời mở cửa, thời kinh tế thị trường.
Một mệnh đề phủ định
Những người trên đò khác nhau về danh phận, giới tính, tuổi tác, nhưng có một điểm chung: phủ nhận thực tại. Nhà sư mới bị nước sông bắn vào người đã vội cầu cứu Phật A-di-đà. Sự tích trao truyền tâm ấn đầy bi tráng có giáo hóa được ai không, chưa biết, nhưng ai cũng biết nhà sư đã xác định vị thế của mình: ta đứng ngoài vòng tục luỵ. Nhà giáo phủ nhận thực tại thật rõ ràng, triệt để. Ông nói: "Đâu đâu... cũng thấy toàn là súc vật. Mọi sự thảy súc vật hết. Cả sự chung tình cũng là súc vật. Ý thức hướng thiện cũng súc vật nốt". Ở một chỗ khác, ông khẳng định lại: "Đâu đâu cũng rặt những phường điêu trá". Việc ông nói dỗi đầy chua chát "Chữ à! văn tốt chữ tươi thì nghĩa lý gì?" và ngâm ngợi đoạn thơ thở than về thân phù thế trong Cung oán ngâm khúc cho thấy ông là người của chủ nghĩa yếm thế. Có thể ông còn là một nhà hiện sinh hạng tồi, vì bất lực trước một "thời đại mất Chúa", ông chỉ biết vơ đũa cả nắm để mạt sát, chửi rủa. Nhà thơ vui vẻ, cởi mở. Nhưng đó chỉ là cách thù tiếp xã giao của kẻ ý thức mình khác thiên hạ. Anh phủ nhận thực tại bằng một phán đoán toàn xưng xanh rờn: "Tiếc thật... tay nào hay thì đều toi cả... văn chương chết đoản hết". Tạo hóa sinh ra anh là để anh mơ mộng. Cá dưới sông anh ngỡ là cá thần tiên. Anh đỏng đảnh cả với mạng sống của mọi người: "Nhà thơ ngồi chênh vênh ở mạn đò. Anh khoả tay xuống nước làm đò chao nghiêng". Anh tự tách mình ra khỏi cộng đồng và xem đó như là nỗi bất hạnh ngọt ngào: "Chỉ có ta, cô đơn giữa bầy...". Thiếu phụ khác người trước hết bởi nàng xinh đẹp, đài các, sau nữa bởi nàng tỏ thái độ bực bội, khinh khi với những kẻ đồng hành. Đáp lại hành vi xin lỗi của tên buôn đồ cổ, "thiếu phụ hất tay hắn, quay mặt đi". Nàng xét nét theo dõi đôi trai gái và buông một lời rủa nặng nề: "Đồ đĩ!". Bọn buôn đồ cổ ấn dao vào cổ chú bé mà không cần đếm xỉa đến người trên đò, xem họ có cũng như không. Đôi tình nhân phủ nhận thực tại theo một cách khác. Họ ứng xử tình dục giữa ban ngày, bất chấp sự có mặt của những người xung quanh. Ngay cả chú bé 9 tuổi cũng không chịu thừa nhận con cá thực tại: "Cá thần tiên đấy".
Còn lại hai người. Chị lái đò bằng lòng với cuộc sống lao động bình dị, ngày ngày đưa khách sang sông. Tên cướp phải đối mặt với rủi ro, với sự khinh miệt, với sự truy đuổi, bắt bớ, tù tội và án tử hình. Cả hai con người của thực tại đều bị những người trên đò vô hiệu hoá.
Không chấp nhận thực tại, nhưng thực tại vẫn ở đó, lỳ lợm thách thức các bậc đạo cao đức cả. Quay lưng với thực tại, họ đã chối bỏ trách nhiệm cá nhân trước cộng đồng, mà đó lại là điểm châu tuần về quan niệm đạo đức của tôn giáo. Rõ ràng họ là tập hợp những kẻ vô đạo, hèn nhát, ích kỷ. Ta mới hiểu tại sao Đấng Cứu thế phải ngã lòng đến vậy vì bầy chiên lạc, tại sao Đức Phật gọi họ là chúng sinh thời mạt pháp. Họ khuất phục trước sự ác là lý đương nhiên. Khi chú bé gặp nạn, nhà sư, nhà giáo, nhà thơ im lặng! Thiếu phụ khóc lóc rên rỉ. Hành động nghĩa cử cao nhất dừng lại ở chiếc nhẫn của chàng trai, và cũng chỉ bấy nhiêu thôi cũng đủ lay động tâm hồn cô gái: "Cô biết, cô sẽ yêu anh mãi mãi".
Sau khi đập vỡ chiếc bình để cứu chú bé, tên cướp nhảy lên bờ, xoay chiếc côn nhị khúc trên tay và nói: "Vô ích!". Đó là lời thách thức hai tên buôn đồ cổ? Có thể lắm. Nhưng lời kể trực tiếp kế ngay liền: "Mà vô ích thật. Rõ ràng là thế.", thì sự thể lại khác. "Vô ích" không còn là lời thoại nữa. Nó thực sự trở thành vị ngữ của mệnh đề phủ định mà chủ ngữ là những gì hiện diện trên đò, kể cả chiếc bình gốm. Cái chứng tích lịch sử ấy cho dù có đẹp, có cổ kính đến mấy, cho dù người ta đắp trát lên nó rất nhiều giai thoại mượt mà, nhưng nó chỉ là đối tượng cho những bậc mũ cao áo dài huyền đàm diệu luận, khi đối mặt với cái ác, nó vô dụng, thậm chí còn đồng loã, thì nó cũng đáng bị đập vỡ để giải phóng con người.
Một bến bờ thế tục
Đến bờ bên kia, mọi người đi tiếp, trừ nhà sư. Tại sao thế nhỉ, điều gì đã cản trở nhà sư vân du?
Nhà sư, với khát vọng Bồ tát, muốn cứu độ chúng sinh từ bến đục sông mê qua bờ giác. Đó là bổn nguyện thật đáng trân trọng. Để thực hiện ý tưởng đó, vị Bồ tát của chúng ta sử dụng phương tiện thiện xảo. Ông kể về sự tích Nhị tổ Thiền tông Huệ Khả tự chặt tay mình để xin pháp ấn của Sơ tổ Bồ đề Đạt Ma. Nhưng ông đã thất bại. Những người trên đò không cần biết "tâm ấn Phật" đã được trao truyền như thế nào giữa sư và đệ, cho dù câu chuyện có lâm li đến mấy. Họ bận rộn với đời sống hiện tiền lấm bết bụi hồng, không hơi đâu mà bi luỵ với cái sự tích chặt tay, chặt chân từ muôn năm cũ. Nhà sư đã phạm sai lầm, vì ông quên chân lý cứu cánh không phải là cảnh giới của ngôn ngữ, ngôn thuyết không với tới được, không thể ghi dấu, không phải là đối tượng của lý luận và tư biện. Cũng như những bậc "thiện trí thức" đương đại, có thể ông thuộc nhiều kinh luận, nhưng lại không nắm được yếu chỉ thiền tông. Ông nói: "Khi ngài ngồi diện bích ở Tung Sơn, Huệ Khả đến...". Sao, đức Bồ đề Đạt Ma từ Tây sang khai sáng ngành Thiền Đông độ, suốt 9 năm chỉ ngồi ngó vách (diện bích) vô vị như thế ở chùa Thiếu Lâm? Bài "Luận về phép an tâm" được coi là của Bồ Đề Đạt Ma có câu:
"An tâm đó, đó là Bích quán"
và ý nghĩa thâm hậu của phép an tâm, đã đưa Bồ đề Đạt Ma lên địa vị Tổ sư của Đại thừa Bích quán nằm cả trong bài pháp sau đây:
Ngoại tức chư duyên
Nội tâm vô suyễn
Tâm như tường bích
Khả dĩ nhập đạo
(Ngoài bặt hết duyên
Trong không vọng động
Tâm như tường vách
Có thể nhập đạo)
Vậy, "ngó vách" chỉ là cách nói hình tượng rất phổ biến trong Thiền thư kiểu Cây bách trước sân, Ba cân gai, Nấu bánh...
Thế mới biết nhà sư của chúng ta tiếp thụ giáo nghĩa quá ư máy móc. Cũng phải, vì đó là nhà sư thời kinh tế thị trường. Chẳng thế mà khi nhìn thấy chiếc bình cổ giá một "cây" vàng, "Nhà sư ngước lên, trong ánh mắt loé một tia sáng thậm chí giống hệt dục vọng". Sự vô minh do cách hiểu biết kinh viện đã làm cho ông chưa có được Đạo nhãn. Chiếc đò không phải là chiếc bè pháp, bờ bên kia không phả là bờ giác. Nó vẫn đơn thuần là chiếc đò và bến bờ thế tục. Việc nhà sư quay trở lại cho thấy lý tưởng Bồ tát nơi ông sụp đổ. Có điều, ông vẫn chứa chan hy vọng, sẽ có lúc với phép thuật vô biên, ông sang sông trên một cọng cỏ như đức Bồ đề Đạt Ma.
Ông niệm thần chú trong Bát Nhã Tâm Kinh:
"Gate gate! Para gate! Parasam gate!"
(Đi qua đi qua! Qua bờ bên kia! Qua đến bờ bên kia!)
Ông đã cắt bỏ phần cuối, vốn là lời chúc lành của chân ngôn: "Bôdhi Svaha!". Ông biết ông không xứng với lời chúc đó. Nhà sư đã không thực hiện được công hạnh phổ độ chúng sinh thoát khổ. Nhà sư đáng thương, hay đáng kính, hay cả hai? Điều này còn tuỳ thuộc độc giả tiếp nhận giáo lý đạo Phật từ giác độ nào.
Sự phá vỡ mô hình
Không ai ưa tên cướp. "Mọi người trên đò lặng ngắt". Trông tướng mạo hắn dữ dằn, bất lương, nhà giáo xếp loại ngay: hắn là tướng cướp. Đã là tướng cướp thì dứt khoát không được làm việc thiện. Vậy mà hắn đã làm. Hắn cứu chú bé. Người trong truyện không chấp nhận hắn đã đành, người ngoài truyện tỉnh táo hơn, sáng suốt hơn cũng không chịu nhượng bộ: "Truyện Sang sông... gặp phản ứng không nhỏ của dư luận: giữa lúc những tệ nạn xã hội như nạn trấn lột, nạn trộm cắp đang đe dọa an toàn xã hội mà Sang sông lại có những tên cướp lương thiện thì không khỏi trở thành trạng sư cho cái ác". (Trần Thị Mai Nhị, sách Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp, Nxb Văn hoá Thông tin 2001, tr. 507). Nhưng chẳng sao, tất cả sẽ được điều chỉnh. Tên cướp không được quyền cứu chú bé. Người trên đò bất lực. Vậy, cứu chú bé chỉ có thể là: "Một anh hùng! Một nhà cách mạng! Một nhà cải cách!" (như cách phân loại lại của anh nhà giáo). Tính hài ở đây nhuốm màu bi kịch. Nó cho thấy cách nhìn nhận con người sơ lược, một chiều kiểu nhân vật loại hình một thời thống trị văn đàn đã trở thành vấn nạn. Chị lái đò ít chữ nghĩa, không bị dính mắc bởi những vọng kiến nhị biên, nhìn nhận thế giới như nó vốn có, nên chị đúng. Chị chế nhạo anh nhà giáo bằng cách "giấu nụ cười thầm. Chị biết, vô phúc cho ai một mình gặp hắn trong đêm". Hắn vẫn là tên cướp.
Đã có một chướng ngại lẩn quất đâu đó, không thể vượt qua để mọi người có thể chấp nhận hắn. Giả dụ thêm một đoạn ngoài cốt truyện, rằng hắn bị công an bắt, bị tòa án hai cấp xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, rồi được hưởng lệnh đặc xá của Chủ tịch nước nhân dịp Quốc khánh. Hắn ra trại với một tấm chứng chỉ cải tạo tốt của Ban quản giáo. Tóm lại, hắn được các cơ quan có thẩm quyền cho phép hoàn lương. Lúc ấy hắn mới bước lên đò. Nếu vậy, Sang sông khỏi phải "gặp phản ứng không nhỏ của dư luận", bởi đoạn ngoài cốt truyện ấy là trật tự mô hình. Cái cộng đồng tạo ra sự phản ứng không nhỏ vốn đã quá quen thuộc với các loại mô hình đúc sẵn. Người viết chỉ cần thêm vào chút đỉnh màu mè, ví như hoặc nói lắp, hoặc cái nốt ruồi đâu đó, hoặc bắt chước Vũ Trọng Phụng "biết rồi, khổ lắm, nói mãi"... là đã có được nhân vật vừa cá biệt, vừa khái quát, đủ cho ra lò những tác phẩm xôm trò gồm ba tính chất dân tộc - khoa học - đại chúng. Ấy vậy mà Nguyễn Huy Thiệp lại dám phá vỡ mô hình, ném vào giữa thế gian một "tên cướp lương thiện" hoang dã, chưa qua một lò đúc sẵn nào.
Ta đã biết người trên đò là sự mã hoá chúng sinh thời hiện đại. Vậy, chừng nào ta còn phân tích nhân vật một cách kinh viện theo định nghĩa của Engels về chủ nghĩa hiện thực, thì chừng ấy ta còn chệch hướng. Nguyễn Huy Thiệp chỉ đưa ra những mảnh vụn về thế giới nhân sinh. Người đọc mặc tình sắp xếp, lựa chọn, suy ngẫm. Tên cướp là một mảnh vụn đó. Cho dù hắn là kẻ xấu, ta sẽ chẳng thể có căn cơ nào để đào thải hắn ra khỏi thế giới loài người, cái thế giới mà Nho giáo đã dứt khoát khẳng định Nhân chi sơ tính bản thiện. Cơ đốc giáo còn đi xa hơn về cội nguồn tâm linh, đặt giáo lý trên cơ bản đức tin và ý chí hướng thiện. Đây đó trong Tân ước vẫn rền vang những dụ ngôn xao xuyến lòng người về Người đi tìm con chiên lạc, về Người tìm đồng bạc bị đánh mất, về Người cha nhân hậu nhận lại đứa con sau bao năm lưu lạc... Minh triết trong Huệ nhãn, kinh luận Phật giáo luôn nhấn mạnh Bản lai diện mục tồn tại trong mọi chúng sinh. "Con chó Triệu Châu" là công án lừng danh trong văn học Thiền. Con chó còn có Phật tính, huống hồ con người, dù người đó là tướng cướp. Tâm lý học hiện đại quan niệm con người là một tổng thể bao gồm các đặc trưng của nhân tính và thú tính. Nó tiềm ẩn trong vô thức. Tuỳ thuộc cơ duyên mà nó tạo thành các xung năng tâm lý thiện hay ác. Vậy, thiết nghĩ mọi người cũng nên cho tên cướp cơ hội một lần bùng phát xung năng nhân tính để hắn cứu chú bé.
Sự lãnh đạm, thờ ơ của những người trên đò lại đẩy hắn vào con đường tội lỗi. Hãy đón nhận hắn như đón nhận người anh em, làm cho tâm sở thiện trong hắn và trong ta luôn luôn được thức gọi, chắc chắn cuộc sống sẽ tốt đẹp hơn. Mà có gì đáng xấu hổ khi phải nhận hắn làm người anh em, bởi nếu ngoái đầu nhìn lại căn nhà cũ, nơi con người đã rời bỏ để dấn thân vào kiếp đi hoang trong cõi vô minh bất định, ta sẽ thấy ta và hắn cùng chung một uyên nguyên cội nguồn.
Sang sông là truyện ngắn dự thi nhưng không được giải.