Thời hạn để các doanh nghiệp chứng minh sở hữu dây chuyền xay xát và kho chứa.... không còn nhiều (trước 30/9). Cho dù các nhà quản lý hiện mới chuẩn bị xem xét tình hình chấp hành quy định về hai điều kiện kho chứa lúa gạo và cơ sở xay xát tại các doanh nghiệp xuất khẩu, nhưng có thể hình dung sẽ có hàng loạt doanh nghiệp sẽ bị buộc rời khỏi “cuộc chơi”. Tuy nhiên, liệu giải pháp này có mang lại kết quả như mục tiêu của Nghị định 109 về kinh doanh xuất khẩu gạo đã đề ra hay không lại vẫn là vấn đề còn để ngỏ.
Cặp mục tiêu quan trọng bậc nhất mà Nghị định 109 hướng tới là xuất khẩu gạo được giá và bảo đảm lợi ích của nông dân trồng lúa, còn cặp điều kiện làm nền vững chắc cho xuất khẩu gạo nói riêng và nền sản xuất lúa gạo nói chung phát triển bền vững là năng lực xay xát và kho tàng của các doanh nghiệp. Trong khi hai điều kiện được lượng hoá rất rõ ràng thì lợi ích của nông dân lại được các nhà hoạch định chính sách “thiết kế ẩn” bên trong giá sàn xuất khẩu gạo.
Bên cạnh giá sàn xuất khẩu gạo, Nghị định 109 đã xác định hai chế định giá khác “làm nền” là giá thành sản xuất lúa và giá lúa định hướng. Trong đó, giá thành phản ánh chi phí sản xuất, còn giá lúa định hướng bao gồm giá thành và lãi của nông dân ít nhất 30% theo quy định hiện hành của Chính phủ thì giá sàn xuất khẩu gạo bao gồm giá lúa định hướng, lãi của doanh nghiệp xuất khẩu gạo và các yếu tố khác.
Mặc dù vậy, theo Nghị định 109, giá lúa định hướng lại là loại giá không bắt buộc các doanh nghiệp xuất khẩu gạo phải thực hiện, bởi giá lúa mua của nông dân là giá thị trường, tức là có thể cao hơn và cũng có thể thấp hơn.
Nhưng giá lúa doanh nghiệp mua của nông dân là giá thị trường, cho nên nó có thể bằng và cao hơn giá lúa định hướng và cũng có thể thấp hơn. Trong điều kiện giá xuất khẩu bị kéo xuống dưới giá sàn thì tính hiện thực của giá lúa định hướng càng ít hơn.
Thực tế thực hiện Nghị định 109 hiện nay cho thấy rất rõ khả năng thứ hai nói trên. Bởi lẽ, các kết quả tính toán từ những thông tin hằng ngày của một hãng thông tấn phương Tây về giá chào xuất khẩu gạo của nước ta từ đầu năm đến nay luôn luôn thấp hơn giá sàn xuất khẩu gạo một khoảng cách không hề nhỏ.
Cụ thể, đối với gạo 5% tấm, trong khi giá sàn xuất khẩu trong tháng 1 là 500 USD/tấn thì giá chào xuất khẩu bình quân chỉ là 446 USD/tấn, tức là thấp hơn giá sàn xuất khẩu tới 54 USD và 10,8%, còn tháng 4 thấp nhất cũng là 15 USD và 3,3%, nhưng tháng 7 vừa qua lại tăng lên 40 USD và 8.9%. Đối với gạo 25% tấm, tình hình còn “tệ” hơn, bởi ba cặp số liệu tương ứng là 61 USD và 13%; 40 USD và 9,4%; 52 USD và 12,2%.
Trong khi đó, các số liệu thống kê của VFA cho thấy, tuy sự hỗ trợ không hề nhỏ của NSNN đã giúp nông dân ĐBSCL tránh được tình trạng được mùa mất giá trong vụ đông-xuân vừa qua, nhưng mục tiêu bảo đảm nông dân có lãi ít nhất 30% đã không được thực hiện trong năm tuần liên tục từ giữa tháng 6 vừa qua và ngay cả việc hỗ trợ lãi suất mua tạm trữ lại được đem ra sử dụng thì giá lúa ở đây có đạt được yêu cầu đó hay không vẫn là điều chưa ngã ngũ.
Những điều nói trên có nghĩa là, hiện chúng ta đang không thực hiện được mục tiêu xuất khẩu gạo được giá, còn mục tiêu bảo vệ lợi ích của nông dân trồng lúa thì cũng đã có một khoảng thời gian dài không thực hiện được. Rõ ràng, điều này sẽ không thể xuất hiện một khi giá lúa là loại giá bắt buộc phải thực hiện để chắc chắn bảo đảm lợi ích của nông dân, còn để có lãi thì các doanh nghiệp buộc phải xuất khẩu gạo với giá cao hơn giá mua lúa của nông dân như cơ chế vận hành của Thái Lan và Ấn Độ hiện nay.
Doanh nghiệp gạo hoang mang vì kế hoạch sàng lọc. Ảnh minh họa. |
Hơn nữa, có không ít ý kiến cho rằng, do thị trường gạo thế giới khó khăn, cho nên phải hạ giá để tăng tốc xuất khẩu. Thế nhưng, theo các số liệu thống kê của FAO, giá gạo thế giới từ đầu năm tới nay không giảm, mà vẫn tăng. Vậy khó khăn nào khiến các doanh nghiệp xuất khẩu gạo nước ta phải hạ giá bán liên tiếp như thời gian vừa qua ?
Quay trở lại năm 2011 khi lượng gạo xuất khẩu 7,1 triệu tấn và kim ngạch 3,5 tỷ USD cũng là lúc khó khăn hiện diện. Bởi lẽ, xét trên tổng thể, năm 2011 được mùa gần 2,2 triệu tấn lúa, tương ứng với 1,368 triệu tấn gạo, nhưng xuất khẩu chỉ tăng rất khiêm tốn 350 nghìn tấn, cho nên nếu tiêu dùng trong nước chỉ tăng 250 nghìn tấn như ước tính của Bộ Nông nghiệp Mỹ thì lượng tồn kho tăng thêm là 768 nghìn tấn sẽ phải chuyển sang xuất khẩu trong năm.
Ở góc độ tiến độ, có thể thấy lượng gạo xuất khẩu từ 700 nghìn tấn/tháng trong suốt sáu tháng trước đó đã xuống chỉ còn 560 nghìn tấn trong tháng 9 và 441 nghìn tấn tháng 10, để chạm đáy chỉ với 279 nghìn tấn tháng 1. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng đó là do giá gạo xuất khẩu đã bắt đầu tăng mạnh từ tháng 7/2011 để đua với Thái Lan nhưng lại quên mất khoảng cách về giá với các đối thủ cạnh tranh chủ yếu là Ấn Độ và Pakistan đã cách tới 80-100 USD/tấn. Trong điều kiện như vậy, việc khách hàng đến với Ấn Độ và Pakistan là điều tất yếu.
Hàng loạt doanh nghiệp không đủ hai điều kiện về năng lực kho tàng và xay xát sẽ bị buộc phải rời khỏi “cuộc chơi”. Tuy nhiên, điều này có thể dẫn đến hệ quả khó lường bởi:
Thứ nhất, nếu chỉ căn cứ trên hai điều kiện trên để loại bỏ các doanh nghiệp thì đương nhiên không xem xét đến việc thực hiện mục tiêu của họ, trong khi đây mới là yếu tố quan trọng nhất trong hoạt động kinh doanh. Bởi lẽ, cho dù đáp ứng tất cả các điều kiện, nhưng nếu các doanh nghiệp này xuất khẩu gạo với giá “bèo” mà vẫn có lãi thì điều đó đương nhiên đồng nghĩa với lợi ích quốc gia không được bảo đảm và lợi ích của nông dân cũng bị ảnh hưởng và ngược lại, không có đủ điều kiện mà vẫn xuất khẩu với giá tốt mà bị “trảm” thì quả là rất bất công.
Thứ hai, sau cuộc “thanh lọc” khi Nghị định 109 có hiệu lực, số lượng doanh nghiệp này đã giảm rất mạnh và con số 153 còn lại hiện nay là không quá nhiều, bởi bình quân mỗi doanh nghiệp cũng xuất khẩu trên 46 nghìn tấn/năm.
Nếu nhìn sang Thái Lan, có thể dễ dàng thấy rằng, tuy đạt kỷ lục xuất khẩu 10,6 triệu tấn gạo năm 2011, nhưng nước này có tới xấp xỉ 200 thành viên trong Hiệp hội xuất khẩu gạo, tức là bình quân mỗi doanh nghiệp cũng chỉ xuất khẩu 54 nghìn tấn/năm. Bên cạnh đó, Thái Lan cũng có rất nhiều doanh nghiệp không tham gia Hiệp hội này. Bởi lẽ, trong cuộc tranh biện về chính sách lúa gạo hiện nay của Chính phủ Thái Lan, có ý kiến nêu rằng nước này hiện có tới 300 doanh nghiệp. Nếu vậy, bình quân mỗi doanh nghiệp cũng chỉ xuất khẩu 35 nghìn tấn/năm.
Thứ ba, việc áp đặt phải có đủ hai điều kiện cơ sở xay xát và kho tàng là việc thay đổi “tập quán” kinh doanh, đòi hỏi không ít thời gian, cho nên việc buộc các doanh nghiệp phải hoàn thành trong một năm có lẽ không khác gì “đánh đố”.
Việc chương trình xây dựng 2,5 triệu tấn kho lúa gạo với không ít ưu đãi, lại thu hút có lẽ hầu hết các “đại gia trong làng xuất khẩu gạo” và bộ máy quản lý rộng khắp mà có thời hạn tới ba năm (2009-2011), nhưng có thể năm 2013 cũng vẫn chưa chắc hoàn thành đủ chứng tỏ điều đó.
Không những vậy, việc hàng loạt doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu gạo ở nước ta không có cơ sở xay xát và kho tàng trong hơn hai thập kỷ qua có lẽ cũng là “thông lệ” trên thế giới. Chẳng hạn, mô hình này rất có thể còn phổ biến hơn nữa ở Thái Lan, bởi họ còn có Hiệp hội Xay xát bên cạnh Hiệp hội xuất khẩu gạo. Điều này có nghĩa là, các nhà xuất khẩu gạo “tay không bắt giặc” ở Thái Lan cũng là tình trạng phổ biến, nhưng vị trí cường quốc xuất khẩu gạo số 1 của nước này trong nhiều thập kỷ đủ khẳng định sức sống của mô hình này.
Nói tóm lại, nếu chỉ căn cứ vào hai điều kiện để “trảm” hàng loạt doanh nghiệp thì chẳng những chưa có gì để bảo đảm tình hình sẽ được cải thiện, cho nên cần xem xét toàn diện, thấu đáo. Có lẽ, sẽ hợp lý hơn nếu đánh giá lại tình hình thực hiện hoặc bổ sung những giải pháp mới để hiện thực hoá cả hai mục tiêu xuất khẩu gạo được giá và bảo đảm lợi ích của nông dân.
(Diễn đàn doanh nghiệp)