Ở đó, sáng ngời và hiện diện trong mọi lĩnh vực tình cảm, là lòng thương yêu - hạt nhân của đời sống tâm lý - của mỗi cá nhân. Lòng thương yêu biểu hiện rất đa dạng với nhiều trạng thái, nhiều cấp độ đan xen phức tạp; tựu trung có thể phân chia thành ba nội dung theo mối quan hệ giữa chủ thể tâm lý và đối tượng như sau:
a. Tình yêu thương con người trong xã hội là nét cơ bản nhất của đời sống nội tâm.
b. Tình yêu thiên nhiên vạn vật là đặc điểm thể hiện sự hoà hợp với tự nhiên của con người.
c. Tình yêu quê hương đất nước là mức độ cao nhất của tình cảm cá nhân.
Không đưa ra một định nghĩa cụ thể về "đời sống nội tâm" song Lê Thánh Tông, qua nội dung thơ văn giàu cảm xúc của mình, đã phần nào phản ánh đậm nét những mặt, những chiều hướng và tầng sâu tâm lý tình cảm của con người. "Đạo người" phải chăng bao hàm cả tình người, tình cảm con người với thiên nhiên, vạn vật?" [21].
Lê Thánh Tông là một ông vua đặc biệt yêu mến người hiền tài. Ông từng làm thơ vịnh các nhân vật xuất chúng trong lịch sử Việt Nam và Trung Hoa: Thánh Gióng, Chử Đồng Tử, Trưng Vương, Triệu Ẩu, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi...; Dĩnh Khảo Thúc, Án Anh, Khuất Nguyên, Lão Tử, Giới Tử Thôi, Mạnh Tử, Trang Tử... Lấy tấm gương sáng của người xưa để răn đời nay là việc thường tình trong tâm thức con người. Lê Thánh Tông rất trọng người tài giỏi đương thời. Ông từng khóc than, làm thơ viếng hai trạng nguyên Nguyễn Trực và Lương Thế Vinh.
"Cẩm tú mấy hàng về động ngọc
Thánh hiền ba chén ướt hồn hoa".
(Điếu Cao Hương Lương trạng nguyên)
"Từ đường ở đấy niềm tây lạnh
Dấu cũ càng thơm xạ có hương".
(Điếu Nghĩa Bang trạng nguyên)
Đối với nỗi oan khuất của dân chúng, Lê Thánh Tông cũng không dửng dưng. Khi tuần du qua miếu "vợ chàng Trương", ông từng xúc động trước câu chuyện về nàng Vũ Thị Thiết, người con gái Nam Xương, vì chồng nghi ngờ lòng chung thuỷ, trinh tiết mà gieo mình xuống sông tự vẫn; và làm hai bài thơ viếng với những câu thơ đau đáu lòng người:
"Hay lòng phó mặc vầng cao thẳm
Lẻ bóng tìm nơi chốn vẳng thanh
Dầu nhẫn ai ai qua đến đấy
Thương nàng hoà lại trách Trương Sinh".
(Hoàng Giang điếu Vũ nương)
"Bóng đèn dầu nhẫn đừng nghe trẻ
Cung nước chi cho lụy tới nàng
Chứng quả đã đôi vầng nhật nguyệt
Giải oan chẳng lọ mấy đàn tràng".
(Lại bài viếng Vũ thị)
Tuy là một ông vua ở ngôi cao vòi vọi, Lê Thánh Tông vẫn có sự liên hệ với người dân qua những chuyến vi hành. Giai thoại còn ghi nhiều câu chuyện về ông như việc viết câu đối tặng bà hàng nước, tặng bà hàng nhuộm... Ngay việc một vị vua đi cày đầu năm đã là chuyện hiếm có. Ông cảm nhận khung cảnh lao động của người dân với con mắt ưu ái; thơ ông có những hình ảnh so sánh làm bật lên số phận khác nhau giữa các tầng lớp người trong xã hội, thể hiện tấm lòng thực sự cảm động trước dân nghèo.
"Rừng kia bố cốc còn khuya giống
Làng nọ nông phu đã thức nằm
Bóng ác rạng đông trời đã sáng
Tiếng gà sôi nổi, tiếng hàn châm".
(Ngũ canh)
"Người nằm trướng gấm mồ hôi lạt
Kẻ hái rau tần nước bọt se".
(Hạ thì)
Nhờ gần dân, ông thấu hiểu nỗi thống khổ của nhân dân, bãi bỏ những luật lệ hà khắc, điều chỉnh hoạt động trị nước của mình. Đây là nguyên nhân quan trọng để cho tư tưởng cũng như các chính sách của Lê Thánh Tông đạt được sự hợp lý và dân chủ nhất định. Tình người là điều đáng trân trọng. Hiểu được lẽ đó, Lê Thánh Tông tuy thân làm vua cầm quân ra trận nhưng cũng rất cảm thông với tâm tư của tướng sĩ khi phải xa nhà, ly biệt với người thân. Nỗi nhớ nhà day dứt đeo đẳng họ cũng như hoà nhập với tâm trạng của Lê Thánh Tông tạo nên những hình ảnh thơ xúc động: nắm tay trong gió bấc lạnh lẽo, bóng trăng cô đơn chiếu rọi đỉnh đầu, cánh hoa mai rụng và nỗi buồn xa xứ.
"Biết nắm tay ai cùng đi trong gió bấc lạnh lùng
Đêm sáng như ban ngày, trời cao bóng trăng đơn chiếc
Hoa mai rụng suốt năm canh làm tăng thêm mối hận phải đi xa.
Sầu tới, chỉ một ngày mà như ba thu đằng đẵng.
Hồn có thể len vào giấc mộng, nhưng có còn lưu lại trong tâm trí lúc tỉnh không?
Rượu cũng làm quên hình hài, song tiếc là chưa có bữa say nào?
Muốn hay tin tức của người thân.
Chỉ e không có chim nhạn mang thư tới Thần Châu (kinh đô).
(Tư gia tướng sĩ)
(Minh lương cẩm tú thi tập bài thứ 14 [MLCT-14])
Trạng thái tình cảm trong bài thơ rất thực, thấm đẫm tình người. Dù cho có ý ca tụng vua chăng nữa, lời bình của Thân Nhân Trung và Đỗ Nhuận, hai Đại học sĩ trong triều, không phải không có tính khách quan: "Thánh thượng ở ngôi cao chót vót, thể tất được nỗi vất vả của kẻ làm tôi đi viễn chinh, miêu tả tình cảm vợ chồng ly biệt một cách u nhã, tha thiết, mới mẻ tân kỳ, kế thừa sâu sắc được phong cách của thơ "Đông sơn", "Thái vi"... hơn hẳn những sáng tác trên ải trong động của các đời sau" [22].
Không chỉ có thế, Lê Thánh Tông đau lòng thương xót binh sĩ bỏ mạng nơi sa trường: "Luống thương binh sĩ dầm bùn vất vả/ Ngã chết mà trong túi không tiền sắm cỗ ván" (CTKH-19). Những tình cảm ấy đã chứng tỏ quan niệm "yêu quân như con" và minh chứng sâu sắc cho quan niệm về "Đạo người" của ông.
Tình yêu thiên nhiên vạn vật là tâm hồn rung động của con người trước vẻ đẹp kỳ thú của cảnh vật xung quanh. Vẻ đẹp ấy có thể toát ra từ những vật nhỏ bé như thân cây, ngọn cỏ, tảng đá, bóng chim...; cũng có thể là hình ảnh lớn hơn như núi non, sông bể, hang động, chùa chiền... Những cái được tạo thành tự nhiên, do quy luật của tự nhiên mà người xưa gọi là dưới bàn tay thợ hoá (hoá công), những cái được tạo thành theo quy luật khách quan dưới bàn tay con người, tất cả chỉ được coi là cái Đẹp khi được phản ánh bởi chủ thể thẩm mỹ là con người. Nhìn ra, phát hiện mỹ tố của cảnh và vật có thể không khó nhưng thực sự cảm được vẻ đẹp ấy, và hơn nữa, thổi vào cho nó một "linh hồn" sống động thì không phải ai cũng làm được. Làm được điều đó ở mức độ nào thì đó chính là kết quả của sự chắt lọc, kết tinh tạo nên đời sống nội tâm của con người. Sự rung động đó, vì thế, ở mỗi người mỗi khác. Tập hợp lại, nó tạo thành một mặt của đời sống tinh thần xã hội. Quan niệm "Đạo người" của Lê Thánh Tông không loại trừ khía cạnh này; ngược lại, những đóng góp không nhỏ của nó còn làm phong phú thêm đời sống nội tâm của mỗi cá nhân và đời sống tinh thần của xã hội.
Là một ông vua đã đi nhiều nơi: chinh chiến, tuần du, vi hành hoặc thưởng ngoạn, Lê Thánh Tông đã đặt chân lên nhiều địa danh nổi tiếng trên mọi miền nước Việt. Nơi nào phong cảnh hùng vĩ tráng lệ, là những danh lam thắng cảnh hay gắn với di tích lịch sử, ông đều có nhã hứng làm thơ đề vịnh. Cảnh vật đã trở thành thi liệu giúp ông giãi bày tâm sự và cảm xúc của mình. Từ núi Dục Thuý đến động Long Quang, từ Sài Sơn đến Bạch Đằng, từ chùa Phật Tích đến chùa Trấn Quốc, từ núi Chích Trợ đến núi Thần Phù, rồi các cửa biển dọc theo chiều dài đất nước... được ghi lại trong những vần thơ trong sáng, hào hứng và cũng không kém phần lắng đọng. Tỷ như bài Đông tuần quá An Lão:
"Dặm ngàn xa cách mấy non sông
Gió đẩy thuyền xuôi thuận một dòng
Bóng xế long lanh làn sóng nước
Mây bay êm dịu mối tơ lòng
Úa vàng cây cối mùa sương lạnh
Mờ mịt đồng dâu lớp khói lồng
Núi bể mênh mông nhìn tít tắp
Màu xanh lồng lộng khoảng trời không".
(Bản dịch Hoàng Việt thi văn tuyển)
Những hình ảnh núi rừng, sông biển, đồng dâu, trời nước, gió mây, sương khói,... như trải ra trước mắt một không gian rộng lớn, cho thấy vẻ thái bình của nước Nam. Những hình ảnh quen thuộc ấy dường như cũng chung cho phong cảnh nước Nam. Cho nên, trạng nguyên Nguyễn Trực không ngần ngại phụng bình: "Miêu tả cảnh toàn thịnh trong sáng, thung dung tuyệt diệu, xưa nay ít có" [23].
Có thể thấy rằng, Lê Thánh Tông có một tâm hồn nhạy cảm và thiết tha với tạo vật. Cùng với tình thương yêu con người - đặc biệt là dân nghèo, đây là cái nền vững chắc đẩy tư tưởng của ông lên một tầm cao xứng đáng, kết hợp được cả tính nhân văn và tính dân tộc. Bởi thế, quan niệm "Đạo người" của Lê Thánh Tông đến đây đã tiếp nối được với truyền thống dân tộc, bồi đắp làm giàu thêm bề dày truyền thống bằng những đóng góp riêng; trong đó, tình yêu quê hương đất nước luôn chiếm vị trí cao nhất và giữ vai trò chủ đạo, định hướng cho các tư tưởng khác.
Tình yêu quê hương đất nước là một thứ tình cảm thiêng liêng thường trực trong mỗi con người. Nó thể hiện tính dân tộc sâu đậm bên cạnh tính nhân loại cao cả. Nó như một mạch ngầm vô tận, âm thầm cuộn chảy, và chỉ chờ có dịp là trỗi dậy mạnh mẽ, tạo nên sức mạnh tổng lực phi thường. Sức mạnh ấy biểu hiện rõ nét nhất trong các cuộc chống ngoại xâm của dân tộc, trong công cuộc kiến tạo đất nước hoà bình thịnh trị. Nhưng đồng thời, nó cũng biểu hiện muôn hình muôn vẻ ở những khía cạnh tình cảm bình thường, giản dị trong cuộc sống, trong sinh hoạt như tình cảm gia đình, tình thương yêu đồng loại, tình yêu thiên nhiên vạn vật. Quan niệm "Đạo người" của Lê Thánh Tông có thực sự mang bản sắc dân tộc hay không phần lớn ở sự chuyển tải nội dung này.
Tiếp nhận giang sơn gấm vóc từ sự gian khổ đánh đuổi giặc Minh và xây dựng nền hoà bình non trẻ của tổ tiên, Lê Thánh Tông luôn ghi nhớ những chiến công huy hoàng của ông cha và các vị anh hùng triều trước, lấy đó làm tấm gương để gắng công dốc sức trị vì đất nước, để không thẹn với liệt tổ liệt tông, với non sông xã tắc, với nhân dân. Tâm sự ấy được giãi bày trong nhiều bài thơ, đặc biệt là QUCC-4:
"Cao Đế anh hùng cái thế danh
Văn Hoàng trí dũng phủ doanh thành
Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo
Vũ Mục hung trung liệt giáp binh
Thập Trịnh đệ huynh liên quý hiển
Nhị Thân phụ tử bội ân vinh
Hiếu tôn Hồng Đức thừa phi tự
Bát bách Cơ Chu lạc thái bình"
(Đức Cao Đế (Lê Thái Tổ) là bậc anh hùng đệ nhất thiên hạ
Đức Văn Hoàng (Lê Thái Tông) trí dũng kế thừa cơ nghiệp
Ức Trai (Nguyễn Trãi) lòng soi sáng văn chương
Vũ Mục (Lê Khôi) bụng chứa đầy binh giáp
Mười anh em họ Trịnh (con thái uý Trịnh Khả) tất thảy đều vẻ vang phú quý
Hai cha con họ Thân (Thân Nhân Trung và Thân Nhân Tín) đều hưởng ân vinh lớn
Cháu hiếu là Hồng Đức (Lê Thánh Tông) nay kế thừa nghiệp lớn
Vui hưởng thái bình như nhà Chu tám trăm năm).
Những ánh hào quang của triều trước đã từng được dân gian ca tụng: "Đời vua Thái Tổ, Thái Tông/ Lúa tốt đầy đồng trâu chẳng thèm ăn" (Ca dao) nay lại tiếp tục soi rọi đến sự thịnh vượng của triều Lê Thánh Tông, vừa là tiền đề, nguồn cổ vũ, vừa là sự nhắc nhở đối với đường lối trị nước của ông. Vì thế, ông đã từng kiên quyết một lòng giữ yên bờ cõi: "Một thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào lại nên vứt bỏ? Ngươi phải kiên quyết tranh biện, chớ cho họ lấn dần. Nếu họ không nghe còn có thể sai sứ sang phương Bắc trình bày rõ điều ngay lẽ gian. Nếu ngươi dám đem một thước một tấc đất của Thái Tổ làm mồi cho giặc, thì tội phải tru di" (Chỉ dụ cho Thái bảo Kiến Dương bá Lê Cảnh Huy, tháng 4/1473 niên hiệu Hồng Đức thứ 4)[ [24]]. Cái đích hướng tới của ông là Nam thiên vạn cổ sơn hà tại ("Trời Nam muôn thuở núi sông bền vững" - Ngự chế Thiên Nam động chủ đề, CCTT-6).
Đôi lúc bắt gặp trong thơ ông tâm sự của một người xa xứ nhớ quê hương. Có thể là sự nhớ nhung quê cha đất tổ xứ Thanh dẫu ông vẫn thường xuyên về dâng hương bái yết. Có thể là ông nói hộ tấm lòng của người khác khi bôn ba chinh chiến nơi biên ải. Có thể là cảm xúc bất chợt trước cảnh trời nước mênh mông chạnh nỗi niềm sầu xứ. Hình ảnh con thuyền vượt sóng nước là hình ảnh chứa chan tình cảm nhớ quê: "Chiếc thuyền khách lướt trên sông Xích Lỗ/ Nỗi xa nhà, lòng nhớ quê khiến ta man mác" (Xích Lỗ hải môn lữ thứ, MLCT-9); "Say rượu, ngồi tựa cửa thuyền, hứng thơ chứa chan/ Thơ mang nỗi niềm khách xa nhà, càng thêm vời vợi" (Hà Hoa hải môn lữ thứ, MLCT-8). Dẫu sao chăng nữa, những tâm sự đó quả là đã góp thêm tiếng nói tâm tình vun đắp cho đời sống nội tâm sâu sắc của con người. Đó là tình cảm muôn đời không thay đổi:
Muôn đời con cháu kính dâng
Tấm lòng cố quốc bâng khuâng đêm trường.
(VMCX-3)
Nói chung, tình yêu thương con người, tình yêu thiên nhiên vạn vật và tình yêu quê hương đất nước trong quan niệm về "Đạo người" của Lê Thánh Tông hoà quyện không tách rời nhau. Việc phân lẻ từng nội dung để xem xét chỉ có ý nghĩa khắc sâu nhận thức về từng mặt của vấn đề. Tổng hợp lại, đó là một chỉnh thể nội tâm sâu sắc, mà ở đó tính dân tộc, tính nhân văn bao trùm đã làm nên đặc trưng của "Đạo người" Việt Nam; trong đó có công của Lê Thánh Tông.
3. Tóm lại, quan niệm "Đạo người" trong thơ Lê Thánh Tông được xây dựng trên cơ sở lý luận và thực tiễn đương thời, trong đó chủ yếu đưa ra một hệ thống phẩm chất làm người có khả năng thực hiện được trong các mối quan hệ xã hội cụ thể. Có thể nói tư tưởng của ông đã tính đến tính thực tiễn khi nhận thấy cần phải có sự tương thích giữa phẩm chất với sự bộc lộ phẩm chất thông qua các mối quan hệ xã hội phức tạp đan xen. Vì thế, "Đạo làm người" của Lê Thánh Tông là thứ đạo chủ trương con người "có văn hoá", "được giáo hoá", biết "hành đạo" (tức là có khả năng hoạt động thực tế), tất cả đều nhằm làm cho đất nước cường thịnh, thanh bình, muôn dân no ấm, yên vui" [25]. Nghĩa là con người phải tích cực rèn luyện, được tạo điều kiện và môi trường rèn luyện để trở thành người "có văn hoá". Sự tích luỹ về mọi mặt ấy phải được thi thố, được sử dụng, được áp dụng trong mọi hoạt động. Như thế, con người mới thực sự làm ra và làm giàu văn hoá; ngược lại, văn hoá thẩm thấu trở lại con người, phát triển con người. Rõ ràng, "Đạo người" của Lê Thánh Tông chứa đựng nhiều nhân tố tích cực, mang sắc thái dân tộc với đặc trưng lớn nhất là hướng về đời sống vật chất và tinh thần của con người. "Vượt lên trên Tam cương - Ngũ thường mang tính luân lý áp đặt, đạo cương thường của Lê Thánh Tông cụ thể và thiết thực hơn, hợp lý và dân chủ hơn"[25]. Cụ thể và thiết thực là tính thực tiễn nằm trong tương quan với lý luận, hợp lý và dân chủ là sự phù hợp với lòng dân, nằm trong tương quan giữa giai cấp thống trị phong kiến và giai cấp bị trị là quần chúng nhân dân lao động. Do đó, tư tưởng Lê Thánh Tông có tính vượt trước so với tồn tại xã hội. Những di sản để lại như chính sách đối nội, đối ngoại, chế định luật pháp, văn bài thi cử, sáng tác văn học, v.v... có ảnh hưởng mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực đối với các triều đại phong kiến về sau.
Nói đến tư tưởng là nói đến nội dung của thời đại lịch sử. Thời đại nào thì tư tưởng ấy. Bởi vì, "không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ, mà chính tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ" [26]. Xem xét Đại Việt thế kỷ XV, một đất nước vừa trải qua chiến tranh, mục tiêu trước mắt là thúc đẩy sản xuất, củng cố chính quyền nhà nước và sửa sang phong hoá. Giai cấp cầm quyền nhà Lê đã biết kết hợp tương đối toàn diện các mục tiêu kinh tế, chính trị và văn hoá để hướng tới một triều đại vững mạnh, hùng cường, vì mục đích độc lập tự chủ cho dân tộc, cường thịnh cho đất nước, no ấm cho muôn dân. Lịch sử đã chứng minh nhà Lê không những không coi nhẹ mặt nào trong "chiến lược phát triển" đất nước của mình mà còn biết đề ra những ưu tiên cụ thể cho từng mặt tuỳ theo từng thời điểm lịch sử thích hợp. Chẳng hạn, khi nhân dân vừa cởi bỏ ách đô hộ nặng nề của giặc Minh xâm lược, nhà Lê ngay lập tức chú trọng vào sản xuất nông nghiệp nhằm giúp dân thoát cảnh nghèo đói, bần hàn. Kế đó và cùng với đó, nhà Lê quan tâm đến việc giữ yên đất nước, lập ra thiết chế, giữ vững cương thổ và mở mang bờ cõi. Bởi nhà nước độc lập non trẻ là miếng mồi ngon cho ngoại bang nhòm ngó. Chính trị vững, kinh tế mạnh thôi chưa đủ, "nguy cơ tụt hậu về văn hoá" cũng trở thành mối lo thường trực. Trong một thời gian, Đại Việt bị cho là văn hoá kém phát triển so với nhà Minh vì sự rập khuôn các thể chế Minh triều mà không tính đến các yếu tố lịch sử - xã hội cũng như bản sắc của dân tộc. Do đó, song song với các hoạt động kể trên, việc chấn chỉnh giáo dục, mở rộng thi cử, chiêu đãi hiền tài, ban hành lễ chế mới, xây dựng các chuẩn mực làm người phù hợp được các vua Lê đầu triều thực hiện rất hiệu quả. Trong đó phải kể đến Lê Thánh Tông với quan niệm "Đạo người" của ông.
---
Chú thích:
[21] Vũ Minh Tâm, Thơ Lê Thánh Tông - Đạo và Mỹ. Trong Hoàng đế Lê Thánh Tông- nhà chính trị tài năng, nhà văn hoá lỗi lạc, nhà thơ lớn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998, tr.316.
[22] Dẫn theo Mai Xuân Hải, Lê Thánh Tông - thơ văn và cuộc đời, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, 1998, tr.312.
[23] Dẫn theo Mai Xuân Hải, sđd, tr.371.
[24] Lê Văn Hưu (1993), sđd, tr.462.
[25] Xem Vũ Minh Tâm, bài đã dẫn, tr.315.
[26] Các Mác, Góp phần phê phán khoa chính trị kinh tế học, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1971, tr.7.
Còn tiếp
Phần 1, 2