Lê Thánh Tông cho rằng dù đã học hết Tứ thư Ngũ kinh, thấu hiểu đạo lý rồi nhưng lòng chưa thành tâm thật ý, trước sau như một thì vẫn không thể hành đạo được: "Nghiền ngẫm chín kinh đã hiểu thấu đạo lý/ Sở dĩ thực hành được là ở lòng chí thành" (Giang hành ngẫu thành - kỳ nhị). Bên cạnh đó, người quân tử khi hành sự không được ngạo mạn, khinh nhờn mà phải cung kính, khiêm nhường. Như thế mới có được lòng tin của mọi người và giữ chữ tín để khiến người. "Cung, khoan, tín, mẫn, huệ" là những đức tính bổ trợ, có tác dụng làm cho mọi việc được trôi chảy, thông suốt. Đây là những phẩm chất cụ thể gắn liền với mỗi hành vi đạo đức của con người. Lê Thánh Tông viết: "Tiếp đãi kẻ dưới cung kính thì con đường đi sáng sủa hanh thông" (Văn minh cổ xuý thi tập bài thứ 5 [VMCX-5]). Ông tuy làm vua nhưng vẫn giữ được sự gần gũi với dân, thương dân; âu cũng thể hiện nếp khiêm nhường của đấng chí tôn và cũng là lòng nhân vậy.
Ngoài ra, Lê Thánh Tông cũng ca ngợi những phẩm chất khác của con người mà Nho giáo ít khi đề cập tới như lòng trong sáng, thanh bạch, khí tiết thanh cao, rắn rỏi, coi thường danh lợi, v.v...
"Trội cành nam chiếm một chồi
Tin xuân mãi mãi điểm cây mai
Tinh thần sáng thuở trăng tĩnh
Cốt cách đông khi gió thôi
Tiết cứng trượng phu thông ấy bạn
Nết trong quân tử trúc là đôi
Nhà truyền thanh bạch dăng từng khối
Phỉ xứng danh thơm đệ nhất khôi".
(Mai thụ)
Mượn hình ảnh "mai - trúc - thông", ông ca ngợi cốt cách tinh thần luôn giữ được phong thái ung dung, đĩnh đạc của người quân tử; đồng thời sự cám dỗ của vinh hoa phú quý không làm lung lạc được chí khí. Ông cũng thích thú với sự nết na như loài cúc, dìu dịu như loài sen. Đây là những đức tính nảy sinh do sự tác động qua lại của tư tưởng Phật, Lão và tư tưởng dân gian Việt Nam khiến cho "người quân tử" trong quan niệm của Lê Thánh Tông thoát ly ít nhiều với khuôn mẫu cứng nhắc của Nho giáo Trung Hoa. "Người quân tử" không những là danh chung của những người có học; ở đây, Lê Thánh Tông đã tiếp cận với tư tưởng dân gian, coi "quân tử" còn là người trong sạch, dù trong hoàn cảnh nào cũng không sa ngã. Trong bài Lại vịnh sen, ông viết: "Quân tử danh hay giống khác thường"; vừa đồng ý với Nho giáo: "Liên hoa chi quân tử giả dã" (Chu Đôn Di đời Tống) vừa kết hợp được cả tư tưởng của nhân dân: "Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn". Thực tế đã cho thấy "người quân tử" trong xã hội phong kiến Việt Nam, dù sinh ra từ nhân dân lao động hay không, đều có nét gần gũi với quần chúng nhân dân và được nhân dân yêu mến.
2.2. Nếu đạo người đã được xem xét với tính cách là hệ thống phẩm chất của con người trong xã hội thì mặc nhiên cũng được tính đến như là sự bộc lộ, hiện hữu thực tế các phẩm chất đó trong phạm vi hoạt động nhất định của mỗi cá nhân. Nói khác đi, những phẩm chất của con người là nội dung, chỉ có thể biểu hiện thông qua hình thức là các quan hệ xã hội đan xen giữa người này với người khác. Từ đó, quan niệm "Đạo người" của Lê Thánh Tông khái quát thành hệ thống chuẩn mực quan hệ xã hội dựa trên Tam cương, Ngũ luân đã được đúc kết từ trước và hiện thực xã hội đang diễn ra.
Trong xã hội phong kiến, mối quan hệ cơ bản hàng đầu là quan hệ vua - tôi (quân thần). Hình ảnh của giai cấp thống trị trong xã hội phong kiến biểu hiện tập trung ở vua (quân vương), hình ảnh của giai cấp bị trị biểu hiện ở phận bề tôi (thần dân). Đạo làm vua và đạo làm tôi được Lê Thánh Tông nhắc đến trong nhiều bài thơ với tần số xuất hiện cao. Ông dành riêng hai bài Ngự chế Quân đạo thi và Ngự chế Thần tiết thi trong QUCC, để bàn trực tiếp đến mối quan hệ tối cao này. Ở đấy, Lê Thánh Tông khắc sâu vai trò, trách nhiệm của vua là "thay trời chăm dân". Trong việc trị nước, bảo vệ lãnh thổ, vua phải lao tâm suy nghĩ tìm ra kế sách phù hợp, phải biết dựa vào người tài giỏi và sáng suốt điều hoà mọi việc theo quy luật, phải có chính sách đoàn kết dân tộc. Muốn vậy, đối với bậc quân vương, yêu cầu của ông đặt ra là "giữ lòng thanh tịnh, hạn chế dục vọng và tuyệt đối bỏ hẳn du chơi săn bắn". Đó mới là đạo lớn của bậc đế vương!
"Đế vương đại đạo cực tinh nghiên
Hạ dục nguyên nguyên thượng kính thiên
Chế trị bảo bang tư kế thuật
Thanh tâm quả dục tuyệt du điền
Bàng cầu tuấn ngải phu văn đức
Khắc cật binh nhung trọng tướng quyền.
Ngọc chúc điều hoà hàn noãn tự
Hoa di cộng lạc thái bình niên".
(Ngự chế Quân đạo thi)
Chỉ trong một bài thơ thất ngôn bát cú gọn ghẽ, Lê Thánh Tông đã tóm lược một cách tương đối đầy đủ những việc trọng đại cần làm của một ông vua, những chính sách đối nội và đối ngoại vì mục tiêu lo cho dân, cho nước thái bình, no ấm. Đạo làm vua như vậy quả là thực tế, không chỉ là chuẩn mực áp đặt đạo quân thần trong Tam cương Nho giáo. Hơn thế, với tư cách là vua một nước, ông còn làm riêng một bài thơ răn mình:
"Lòng vì thiên hạ những sơ âu
Thay việc trời, dám trễ đâu
Trống dời canh còn đọc sách
Chiêng xế bóng chửa thôi chầu
Nhân khi cơ biến xem người biết
Chứa thuở kinh quyền xét lẽ màu
Mượn biểu áo vàng chăng có việc
Đã muôn sự nhiệm trước vào tâu".
(Tự thuật)
Nổi bật trong lời thơ chân thành trên là hình ảnh cúc cung tận tụy của một vị vua "lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ" (Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc, Phạm Trọng Yêm đời Tống). Làm vua phải dốc lòng dốc sức nghiên cứu sách vở, sử dụng hiểu biết của mình để phê duyệt tấu chương, xem xét việc triều chính, say sưa đến nỗi quên hết thời gian. Trong công việc của một vị vua, Lê Thánh Tông luôn đề cao khả năng xét đoán linh hoạt, khi thì theo nguyên tắc thường hành, cố định, khi lại thay đổi quyền biến tuỳ từng trường hợp, từng hoàn cảnh cụ thể. Những nhà tư tưởng sáng suốt luôn coi trọng yếu tố biện chứng trong tư duy và trong hành động, dĩ bất biến ứng vạn biến.
Bên cạnh đó, bậc minh quân không thể không có đức Nhân. Đức Nhân ấy vừa có cái chung là lòng nhân của con người, vừa có cái riêng do địa vị xã hội quy định. Đức Nhân của bậc đế vương không loại trừ việc diệt trừ lũ bạo tàn giữ yên đất nước, đó không phải là vì hiếu chiến, ham mê việc binh không chán. ("Trừ tàn khử bạo đế vương nhân/ Cảm tác cùng binh độc vũ quân", Khải hành thi - kỳ nhất, CTKH-1). "Lời biện bạch" này có thể còn có những bình giá khác nhau (về sự hiếu chiến và hiếu sát của Lê Thánh Tông [15]) nhưng xét trong bối cảnh lịch sử xã hội phong kiến, thì tư tưởng "bành trướng" là không tránh khỏi. Nhìn ở khía cạnh khác, giá trị tư tưởng của nó là ở chỗ giữ yên đất nước, bảo vệ cương thổ, mở mang bờ cõi. Vì vậy, trong Chiếu đánh Bồn Man ban ngày 7/6/1479 niên hiệu Hồng Đức thứ 10, Lê Thánh Tông viết: "Trời đất khoan thứ như dương sinh, thảm khắc tựa âm tàn, nguyên khí bao la mọi chốn. Đế vương nuôi dưỡng bằng lòng nhân, đánh dẹp dùng điều nghĩa, đức uy trùm khắp tám phương. Kinh Dịch nói: "Cung tên để ra uy trong thiên hạ". Kinh Thư ghi: "Kẻ vô đạo thì thúc đẩy cho diệt vong, người có đạo thì giữ gìn cho còn mãi, như thế thì nước mới phồn vinh". Kinh Thi viết: "Chăm việc võ bị, để yên nước vua". Chu Lễ nói: "Kẻ nào giết người hiền, hại sinh dân thì phải đánh, kẻ nào cậy hiểm trở, không phục tùng thì phải chiếm". Câu nói trị đời của thánh hiền xưa nay vẫn là một" [16]. Hoặc trong Chiếu đánh Ai Lao (22/7/1479): "Bậc đế vương đời xưa chế ngự di địch, phục tùng thì cưu mang bằng đức, phản lại thì sấm sét ra oai. Cốt để diệt bạo trừ hung, cho dứt mối lo cõi bờ bị xâm lấn; đổi lòng theo hoá, cho trọn lòng nhân của trời đất chở che"[16].
Học theo Kinh Dịch, hào Lục ngũ, quẻ Khiêm, Lê Thánh Tông không những coi trọng cái uy dũng của bậc thánh vương mà còn biết giữ sao cho cái uy dũng đó không đi quá đà, bằng cách chú trọng thêm đức khiêm nhường; giống như sự tác động hài hoà giữa cương và nhu, giữa dương và âm: "Nhún nhường mà vẫn phải đánh kẻ láng giềng không quy phục/ ấy là việc đánh dẹp của các bậc tiên hiền ngày xưa" (CTKH-13). Triết lý này thể hiện đặc điểm chung của tư tưởng phương Đông luôn "yêu mến" sự cân bằng (dĩ hoà vi quý), giữ được trạng thái ấy mới là vẹn toàn bởi nếu nghiêng quá về bên nào cũng đều gây ra sự lệch lạc bất ổn, không tốt (thái quá bất cập).
Trở lên là quan niệm về đạo làm vua trong "Đạo người" của Lê Thánh Tông, trong đó đức Nhân được tham chiếu bởi các đức tính khác như trí dũng, khiêm hoà, chuyên cần, uy đức... Vừa có trí vừa có dũng, vừa có uy vừa có đức thì mới thu phục được nhân tâm, thực hiện được việc trị nước; khiêm hoà thì giữ được uy dũng, chuyên cần thì nâng được trí - đó đều là những đức tính cần thiết để trở thành một minh quân.
Về đạo làm tôi, Lê Thánh Tông cũng cho rằng chữ Trung phải được đặt lên hàng đầu, là tấm lòng son sắt trước sau không đổi, tựa như mặt trời sáng chói. Trung là trung quân? Trung là trung với dân, với nước? Lê Thánh Tông thậm chí không đề cập đến quan niệm "trung quân" mà chỉ nhấn mạnh kẻ bề tôi (những người giúp vua lo việc nước) phải một lòng giúp nước an dân, vỗ yên trong ngoài, cũng phải lo trước vui sau như người làm vua vậy. Những tấm gương được viện dẫn trong lịch sử Trung Hoa như Y Doãn, Phó Duyệt (thời Thành Thang nhà Thương), Trương Lương, Hàn Tín (thời Hán Cao Tổ) đều lấy trung như thế làm đầu, mọi cố gắng rèn luyện khác đều vì mục đích ấy.
"Một long son rờ rỡ sáng chói như mặt trời
Chính trị là ở chỗ an dân, điều nghĩa ấy thật là sâu sắc
Y Doãn, Phó Duyệt trung thành, chăm chỉ, phô đức chuyên nhất
Trương Lương, Hàn Tín tiếng tăm danh giá nặng tợ nghìn vàng
Trong ngoài vỗ yên, ấy sức kéo trời
Vui sau lo trước, là lòng giúp nước
Chí thành danh toại, con cháu đông vui
Khác nào cây tùng, cây bách trên vách đá sum suê xanh tốt".
(Ngự chế Thần tiết thi)
Một bậc minh quân luôn mong tìm được bề tôi tài giỏi, dốc lòng dốc sức chèo chống vận hội nước nhà, mỗi người mỗi việc tuỳ theo khả năng của mình, có thể "vào thời làm rường làm cột, khoẻ chống miếu đường; ra thời nên ải nên thành, bền che phiên trấn" (Giới quan liêu, TGCHQNV). Đồng thời, Lê Thánh Tông cũng cảnh báo nguy cơ thoái hóa biến chất, sa ngã của tầng lớp quan lại trước sự cám dỗ của vinh hoa phú quý: "Phú quý nhìn xem yêu hết tấc/ Máy nghèo sao khéo hãm người ta" (Bài kệ Giới quan liêu, TGCHQNV).
Như vậy, đạo làm tôi ở đây thực chất là đạo làm quan, đạo của những người đứng ra chăm lo cho dân, "dân chúng bị đói rét thì phải trăm phương nghĩ cách xoay xở [ ... ] để cho dân có của thừa và không còn nạn đói rét lưu vong nữa" [17]. Muốn vậy, việc khen thưởng - xử phạt phải phân minh: "Nếu có việc gì hại giáo hóa, xấu phong tục, phải để ý răn trị. Người nào có trung, tín, hiếu, đễ phải chú ý khen thưởng. Như vậy thì dân đều trở nên trung hậu mà thói điêu bạc gian dối đều được trừ bỏ. Người nào biết tuân theo và thi hành có hiệu quả thì hai ty khai tâu lên để khen thưởng. Nếu có viên quan nào coi thường chức sự thì bãi chức sung quân" (sắc dụ 26/11/1485 niên hiệu Hồng Đức thứ 16)[17]. Với người dân, ông khuyên phải trung hậu, chăm nghiệp nông tang, không điêu bạc gian dối, giữ gìn phong hoá - đấy cũng là đạo của thần dân.
Gia đình bao giờ cũng là cái nôi nuôi dưỡng con người lớn lên, quy định sự hình thành các phẩm chất cơ bản của mỗi cá nhân từ khi sinh ra cho đến lúc trưởng thành. Sự tác động của gia đình, vì thế rất quan trọng. Lê Thánh Tông quan tâm đến đạo người biểu hiện trong gia đình, mà ở đó nền tảng cốt lõi là mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái. Sắc dụ 14/10/1485 niên hiệu Hồng Đức thứ 16: "Người làm cha không được quá yêu dấu thiên lệch để xảy ra tan cửa nát nhà, kẻ làm con không được bất nghĩa mà gây thói xấu tổn thương phong hoá"[17]. Tội bất hiếu cũng được quy định là một trong "thập ác", bị xử rất nghiêm khắc (Điều 2, chương Danh lệ [18]). Lê Thánh Tông rất ngưỡng mộ tổ phụ (Thái Tổ, Thái Tông), làm nhiều thơ ca ngợi, cho thấy truyền thống hướng về tổ tiên của tín ngưỡng người Việt có những sắc thái riêng, ảnh hưởng sâu đậm cả trong dân gian lẫn triều đình phong kiến. Vua cũng nhiều lần về bái yết sơn lăng, thường vào mùa xuân tháng 2 hằng năm, để tỏ lòng thành kính, hiếu thuận [19].
"Cao Đế anh hùng dễ mấy ai
Văn Hoàng trí dũng kế ngôi trời"
(QUCC-4)
"Hiển hách võ công lừng nghiệp đế
Mênh mông văn đức hợp dân ta"
(Tưởng nhớ công nghiệp của hai vị thánh)
Đặc biệt đối với thân mẫu Quang Phục hoàng thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao, Lê Thánh Tông luôn hướng đến với tấm lòng thành kính yêu thương. Nhất là trong những chuyến đi xa, chinh chiến dẹp loạn ngoài biên ải, nỗi nhớ thương không lúc nào nguôi của ông một mực dành cho người mẹ. Tất thảy được ghi lại trong CTKH (các bài 3, 6, 8, 12, 28) với tình cảm chân thành, sâu sắc: "Cung sâu Trường Lạc giấc mộng nơi xa trở về", "Mỏi mòn con mắt nhớ mẹ hiền nơi xa xôi vạn dặm/ Lúc ngồi nghe tiếng sóng vỗ ầm ầm trong đêm", "Nhớ lời mẹ dặn, giữ mình cẩn thận, đề phòng bệnh tật", "Gió đưa giấc mộng bay về kinh đô/ Trông về quê mẹ đường xa vời vợi/ Muôn dặm non sông đè nặng tâm can/ Canh tư trống nổi lan xa trời thẳm", "Biết lấy gì an ủi được tấm lòng nhớ thương người mẹ nơi xa".
Quan niệm của Lê Thánh Tông về mối quan hệ cha mẹ - con cái không hề cứng nhắc. Những quan niệm "phụ xử tử vong tử bất vong bất hiếu", hay "cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy" chắc chắn vẫn còn tác động mạnh trong xã hội phong kiến, song trong tư tưởng Lê Thánh Tông, nó hầu như nhạt đi; thay vào đó là cả thế giới nội tâm bao la trong mỗi con người, chứa đựng nhiều nhân tố tích cực. Đạo làm cha mẹ tất nhiên thương con, chăm con nhưng phải thương, chăm cho đúng cách. Đạo làm con tất nhiên phải lấy chữ Hiếu làm đầu, trong đó điều cốt yếu là phải có "tấm lòng thành đầy đặn". Chỉ có lòng thành thì hiền thảo mới thấu lên tận trời xanh ("Hiền thảo dòng nhà thấu bích thiên", Chử Đồng Tử). Ví với sừng sững núi non, cuồn cuộn sông nước, Lê Thánh Tông khẳng định như một chân lý trường tồn:
"Vua nhân con hiếu là bổn phận phải lo toan
Dù kiếp người ngắn ngủi như hơi thở cũng chẳng làm hao mòn được chí khí anh liệt
Muôn ngọn núi vẫn sừng sững, dòng sông vẫn trôi xuôi mãi".
(Giang hành ngẫu thành - kỳ thập)
Trong quan hệ gia đình, bên cạnh đạo làm cha mẹ và đạo làm con, đạo vợ chồng cũng là một nhân tố quan trọng tạo nên chỉnh thể gia đình toàn vẹn. Lê Thánh Tông đề cao sự chung thuỷ, trinh tiết, vợ chồng đối xử ân cần hoà thuận. Một điều, có lẽ là hạt nhân tiến bộ của nhân sinh quan Lê Thánh Tông được duy trì nhất quán, là sự thông cảm sâu sắc đối với thân phận người phụ nữ, người vợ. Ông viết về nỗi oan khuất của họ cũng như việc họ phải xa chồng vì binh loạn: Thương người con gái Nam Xương "cách trở bấy lâu hằng giữ phận" mà chỉ "một phút hiềm nghi" phải chịu thác oan (Hoàng giang điếu Vũ nương); thương "khách vọng phu đau lòng vì tin nhạn tắt" (Thu tứ). Hơn nữa, ông còn tỏ ý khâm phục những người phụ nữ anh hùng "trợ dân dẹp loạn" trả thù nhà đền nợ nước (Trưng Vương), Triệu ẩu, Chế Thắng phu nhân, hay người phụ nữ "Thờ chúa thờ chồng hết tấc thương/ Một mình lọn đạo việc cương thường" (Vịnh Mỵ Ê).
Không dừng lại ở những lời thơ, dẫu sao mới chỉ là sự chia sẻ mối đồng cảm với những thân phận truân chuyên, Lê Thánh Tông còn phê chuẩn trong thực tiễn những chỉ dụ nhằm ca ngợi những người phụ nữ trinh tiết "Ban biển ngạch cho người phụ nữ trinh tiết là Nguyễn Thị Bồ ở xã Đại Hữu Lệ, huyện Thanh Trì để nêu khen với xóm làng, cho một người con hay cháu được miễn phu dịch để nuôi sống" (tháng 2/1463 niên hiệu Quang Thuận thứ 4)[ [20]. Ông cũng thẳng tay trừng trị người chồng tệ bạc. Chẳng hạn chuẩn y theo lời hặc tội Trấn điện tướng quân Bùi Huấn của Hàn lâm viện trực học sĩ quyền Công khoa cấp sự trung Lương Thế Vinh: "Luân thường lớn của con người có 5 điều thì đạo bè bạn vợ chồng đều chiếm 1 điều trong đó. Nay Huấn đương lúc còn tang vợ mà đi lấy con gái của người về hàng bạn hữu, hơn nữa trước đã lấy con gái của người ấy làm vợ cả rồi. Tệ bạc trong ân ái vợ chồng, khinh miệt đạo cương thường đến thế. Việc này quan hệ đến phong hoá, làm rối loạn nhân luân, xin giao cho pháp ty trị tội"[20].
Những phác thảo trên phần nào thấy được quan niệm của Lê Thánh Tông về chuẩn mực quan hệ xã hội thông qua ba mối quan hệ cơ bản: vua - tôi, cha mẹ - con cái, chồng - vợ. Trong các quan hệ này, phẩm chất con người một lần nữa được trình bày một cách khá thực tế; qua đó cũng cho thấy cách nhìn nhận tích cực của Lê Thánh Tông về sự phong phú, phức tạp của các mối quan hệ xã hội, dù vẫn phải mượn lốt Tam cương ít nhiều cứng nhắc.
----
Chú thích:
[15] Xem Trần Quốc Vượng, Về Lê Thánh Tông (1442-1497) - (Mấy điều giải ảo hiện thực lịch sử Việt Nam thế kỷ XV). Trong Hoàng đế Lê Thánh Tông - nhà chính trị tài năng, nhà văn hoá lỗi lạc, nhà thơ lớn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998, tr.83-108.
[16] Lê Văn Hưu (1993), sđd, tr.474, 476.
[17] Lê Văn Hưu (1993), sđd, tr.497, 496.
[18] Xem Vũ Huy Phúc (khảo cứu), sđd, tr.37.
[19] Xem Lê Văn Đình, Tình yêu của Lê Thánh Tông với đạo Thanh Hoa thuở ấy. Trong Hoàng đế Lê Thánh Tông - nhà chính trị tài năng, nhà văn hoá lỗi lạc, nhà thơ lớn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998, tr.67-82.
[20] Lê Văn Hưu (1993), sđd, tr.393, 418.
Còn tiếp
Phần 1