Về thủ tục kết hôn, Điều 18, Nghị định số 158/2005/NĐ-CP quy định như sau:
“1. Khi đăng ký kết hôn, hai bên nam, nữ phải nộp tờ khai (theo mẫu quy định) và xuất trình giấy chứng minh nhân dân.
Trong trường hợp một người cư trú tại xã, phường, thị trấn này, nhưng đăng ký kết hôn tại xã, phường, thị trấn khác, thì phải có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi cư trú về tình trạng hôn nhân của người đó.
Với người đang trong thời hạn công tác, học tập, lao động ở nước ngoài về nước đăng ký kết hôn, thì phải có xác nhận của Cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam tại nước sở tại về tình trạng hôn nhân của người đó.
Với cán bộ, chiến sĩ đang công tác trong lực lượng vũ trang, thì thủ trưởng đơn vị của người đó xác nhận tình trạng hôn nhân.
Việc xác nhận tình trạng hôn nhân nói trên có thể xác nhận trực tiếp vào Tờ khai đăng ký kết hôn hoặc bằng Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân theo quy định tại Chương V của Nghị định này.
Việc xác nhận tình trạng hôn nhân có giá trị 6 tháng, kể từ ngày xác nhận.
2. Trong thời hạn 5 ngày, kể từ ngày nhận đủ giấy tờ hợp lệ, nếu xét thấy hai bên nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, thì Ủy ban nhân dân cấp xã đăng ký kết hôn cho hai bên nam, nữ.
Trong trường hợp cần phải xác minh, thì thời hạn nói trên được kéo dài thêm không quá 5 ngày...".
Theo các quy định mà chúng tôi viện dẫn ở trên, khi đăng ký kết hôn hai bên nam nữ phải có mặt để nộp tờ khai, xuất trình chứng minh nhân dân và giấy xác nhận tình trạng hôn nhân có xác nhận của UBND cấp xã nơi người đó đăng ký thường trú (của vợ hoặc chồng, nếu vợ chồng không đăng ký hộ khẩu thường trú ở hai xã/phường khác nhau).
Việc UBND phường yêu cầu phải có cả xác nhận của tổ trưởng dân phố là không đúng với quy định của pháp luật nêu trên.
Luật sư Vũ Hải Lý
Công ty Luật Đại Việt
Số 335 Kim Mã - Ba Đình - Hà Nội