Ông Nguyễn Doãn Tú, Tổng cục trưởng Dân số - Kế hoạch hóa gia đình, Bộ Y tế, cho biết với 96,2 triệu người năm 2019, tỷ lệ tăng dân số bình quân hằng năm trong mười năm qua là 1,14%. Bình quân mỗi năm Việt Nam tăng khoảng một triệu dân.
"Theo mục tiêu Chiến lược Dân số và Sức khỏe sinh sản Việt Nam giai đoạn 2011-2020, tỷ lệ tăng dân số phải duy trì khoảng 1% đến năm 2020", ông Tú nói.
Theo ông Tú, Việt Nam chạm đỉnh dân số vàng và bước vào thời kỳ già hóa dân số với tốc độ nhanh. Năm 2011, khi Việt Nam bước vào giai đoạn già hóa, số người trên 60 tuổi chiếm 9,9%. Năm 2018, con số này tăng lên thành 11,95%.
"Dự báo, Việt Nam sẽ trở thành nước có dân số già vào năm 2038 với tỷ lệ người từ 60 tuổi trở lên đạt trên 20%. Đến năm 2049, tỷ lệ người cao tuổi sẽ chiếm khoảng 25% dân số, tức là cứ 4 người dân có một người cao tuổi", ông Tú cho biết.
Việt Nam là một trong số những quốc gia có tốc độ già hóa nhanh nhất thế giới. Trong khi các nước phát triển có nhiều thập kỷ đến hàng thế kỷ mới chuyển đổi từ giai đoạn già hóa dân số sang giai đoạn dân số già như Pháp 115 năm, Australia 73 năm; Trung Quốc 26 năm; tiến trình này ở Việt Nam chỉ diễn ra trong 15 năm.
Đặc điểm của già hóa dân số ở Việt Nam là nữ cao tuổi nhiều hơn nam, với sự gia tăng tỷ lệ góa và tình trạng người già sống một mình. Đời sống vật chất của người cao tuổi Việt Nam còn nhiều khó khăn khi 68% sinh sống ở nông thôn, là nông dân và làm nông nghiệp.
Hơn 72% người già sống cùng với con cháu, trong khi xu hướng quy mô gia đình Việt Nam đang chuyển dần từ gia đình truyền thống sang gia đình hạt nhân. Phải sống một mình là điều rất bất lợi đối với họ, bởi gia đình luôn là chỗ dựa cơ bản cho mỗi thành viên khi về già.
Sức khỏe người cao tuổi Việt Nam còn nhiều hạn chế. Tuổi thọ trung bình cao (73 tuổi) nhưng số năm sống khỏe mạnh chỉ khoảng 64 tuổi. 96% người mang gánh nặng bệnh tật kép, chủ yếu là bệnh mạn tính không lây truyền. Trung bình một người cao tuổi Việt Nam mắc 3 bệnh. Hệ thống chăm sóc sức khỏe chưa đáp ứng những nhu cầu ngày càng tăng của người già.
Theo ông Tú, cùng với quá trình già hóa dân số, Việt Nam cũng đang ở trong thời kỳ dân số vàng khi tỷ lệ người trong độ tuổi lao động lớn hơn tỷ lệ người trong độ tuổi phụ thuộc. Từ năm 1989 đến nay, số người dưới 15 tuổi giảm từ 39% xuống 24%; trong độ tuổi lao động (15-64 tuổi) tăng từ 56% lên 68%.
"Lợi thế dân số vàng nếu được tận dụng tốt là điều kiện để cải thiện cuộc sống cho nhóm dân số cao tuổi trong tương lai. Bởi vậy, đầu tư y tế, giáo dục và công việc ổn định cho thế hệ thanh niên hiện tại có vai trò quan trọng trong việc giải quyết các nhu cầu của thế hệ người cao tuổi kế tiếp", ông Tú nhìn nhận.
Việt Nam áp dụng chính sách giảm sinh, từ năm 2011 bước vào giai đoạn già hóa dân số. Hệ thống an sinh xã hội, hệ thống chăm sóc sức khỏe chưa kịp hoàn thiện để đáp ứng nhu cầu của người cao tuổi, đặt ra nhiều thách thức trong công tác lập kế hoạch và hoạch định chính sách. Một bộ phận xã hội còn có quan niệm thiên lệch về người cao tuổi như cho rằng là gánh nặng, do đó chưa có nhận thức và hành vi thích ứng với xã hội "già hóa".
Định nghĩa của Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA) về tuổi trạng dân số Dân số già hóa: Khi tỷ lệ người từ 60 tuổi trở lên chiếm 10% hoặc tỷ lệ người từ 65 tuổi trở lên chiếm 7% tổng dân số. Dân số già: Khi tỷ lệ người từ 60 tuổi trở lên chiếm 20% hoặc tỷ lệ người từ 65 tuổi trở lên chiếm 14% tổng dân số. Dân số rất già: Khi tỷ lệ người từ 60 tuổi trở lên chiếm 30% hoặc tỷ lệ người từ 65 tuổi trở lên chiếm 21% tổng dân số. Dân số siêu già: Khi tỷ lệ người từ 60 tuổi trở lên chiếm tương ứng 35% tổng dân số hoặc tỷ lệ người từ 65 tuổi trở lên chiếm 26% trong tổng dân số. |