![]() |
Alexandre Yersin - hiệu trưởng đầu tiên của Đại học Y Hà Nội. |
Đại học Y Hà Nội được Toàn quyền Pháp tại Đông Dương là Paul Doumer ký nghị định thành lập ngày 8/11/1902, do bác sĩ A. Yersin làm hiệu trưởng. Lúc này, nó mang tên Trường Y khoa Đông Dương, có nhiệm vụ đào tạo thầy thuốc cho toàn xứ. Trong số các giáo sư người Việt đầu tiên giảng dạy ở đây có ông Tôn Thất Tùng, Hồ Đắc Di, Đặng Văn Ngữ..., những tên tuổi lớn của y khoa Việt Nam sau đó.
Năm 1906, 2 bệnh viện thực hành do trường quản lý được xây dựng, đó là nhà thương Phủ Doãn và Cống Vọng (bây giờ là các bệnh viện Việt Đức và Bạch Mai). Ngoài giờ học trên lớp, thầy trò trường Y đã đến đây để khám chữa bệnh cho dân.
Sau Cách mạng tháng Tám, trường được đổi tên là Đại học Y dược khoa Việt Nam, do giáo sư Hồ Đắc Di làm hiệu trưởng. Trong 2 cuộc chiến tranh chống Pháp và Mỹ, trường có nhiều đóng góp lớn. Tháng 9 năm 1945, khi Pháp trở lại gây hấn ở miền Nam, thầy trò của trường đã lên đường Nam tiến; nhiều người sau này trở thành lực lượng nòng cốt của quân dân y miền Nam.
Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, trường di tản dần lên chiến khu Việt Bắc. Chỉ với 3 giáo sư và một số trợ giảng, trong điều kiện chiến tranh phải di chuyển thường xuyên, trường vẫn duy trì một bệnh viện thực hành, cung cấp đủ y bác sĩ cho quân dân các vùng kháng chiến và các mặt trận. Cũng trong thời gian này, từ trường Y Hà Nội, nền y học Việt Nam bắt đầu được thế giới biết đến với các công trình cắt gan của giáo sư Tôn Thất Tùng, đường lối y tế cộng đồng của bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, công trình khoanh vùng sốt rét của giáo sư Đặng Văn Ngữ...
Trong kháng chiến chống Mỹ, các thầy giáo và sinh viên của trường cũng tỏa đi khắp các chiến trường để cứu chữa thương binh. Nhiều người đã hy sinh như các bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, Đặng Văn Ngữ...
Hòa bình lập lại, Đại học Y Hà Nội góp công lớn trong việc thành lập hệ thống đào tạo y bác sĩ trong cả nước, như chi viện cán bộ để xây dựng các học viện, các trường đại học y dược. Từ những năm 70, Đại học Y Hà Nội đã đào tạo bác sĩ chuyên khoa cấp 1, cấp 2, sau đó là đào tạo nghiên cứu sinh. Hiện nay, ngoài các bệnh viện thực hành ở Hà Nội, trường đã xây dựng nhiều địa bàn thực tập cho sinh viên tại một số địa phương ở miền Bắc, phục vụ cho việc đào tạo bác sĩ đa khoa cộng đồng.
Ông Tôn Thất Bách, Hiệu trưởng nhà trường, cho biết, đến nay, Đại học Y Hà Nội đã đào tạo được 17.000 bác sĩ. Trong đó, có 530 bác sĩ nội trú, 7.500 bác sĩ chuyên khoa cấp 1 và 2, hơn 800 thạc sĩ và 342 tiến sĩ.
Thầy trò của trường thường xuyên tham gia vào các hoạt động nghiên cứu khoa học. Các lĩnh vực được trường chú trọng là y học cơ sở, y học lâm sàng (với các kỹ thuật mũi nhọn hiện nay như ghép, thận thụ tinh trong ống nghiệm...) và y học dự phòng (với các đề tài về môi trường - sức khỏe, sức khỏe sinh sản, dioxin...).
Với những cống hiến trong suốt 100 năm phát triển, trường vừa được nhà nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh.
S.K.