Paul Jenning -
Bố tôi châm ngòi chiếc dây cháy chậm khá dài thòi ra từ mũi con cá, sau đó ông chạy thật nhanh về chỗ chiếc xe tải. Tôi tự hỏi sẽ như thế nào nếu trong bụng con cá voi có quá nhiều thuốc nổ. Có lẽ nó sẽ làm cho những tảng thịt bị xé ra nhỏ hơn và như thế càng dễ bị nước triều cuốn ra xa. Sợi dây cháy chậm tóe lửa lèo xèo. Tia lửa màu vàng da cam chạy dọc theo mình và chui vào mũi con cá voi. Tôi kéo tay áo để nhìn xem lúc này là mấy giờ.
Nhưng chiếc đồng hồ của tôi đã bị mất. Nó nằm trong bụng con cá voi.
Trời đất ơi, tôi không thể chịu nổi. Chiếc đồng hồ mới tinh của tôi!
Tôi hoàn toàn quẫn trí, điên giận, không làm chủ được mình. Tôi vùng dậy và chạy về phía con cá voi. Tôi hét tướng lên:
- Chiếc đồng hồ của tôi! Chiếc đồng hồ của tôi!
Tôi nghe thấy tiếng bố tôi hét lên thất thanh ở phía sau:
- Troy, quay lại, Troy quay lại ngay. Nó nổ đấy.
Tôi không nhận thức được việc tôi làm. Tôi nhảy vọt lên miệng con cá voi và trườn xuống. Bố tôi túm chặt cổ chân tôi và lôi xuống. Ông kéo tôi tuồn tuột trên cát. Tôi giãy giụa bụng lết trên cát. Mắt, mũi, và mồm tôi đầy cát, mặt tôi bị xước vì những mảnh vỏ sò vỏ hến. Nước mắt tôi trào ra. Bố tôi ấn mạnh tôi vào gầm xe tải. Thật đúng lúc.
Ầm... bầu trời tối sầm lại. Mặt trời như tắt ngấm. Cát, lòng ruột cá voi bay tới tấp, rào rào trong không khí như khi có dông tố mù mịt. Một cơn mưa thịt cá voi, thịt rơi tung tóe khắp nơi.
Phải đến năm mươi thỏi thuốc nổ chứ không ít!
Tiếng nổ rền vang tưởng như vỡ màng nhĩ. Chiếc xe tải rùng rùng vì sức ép không khí. Những tia cát thốc vào làm xước nước sơn của nó.
Khi bầu trời dần dần quang đãng trở lại nơi bãi biển có một cái vũng to tướng. Trên bãi không có lấy một mẩu thịt cá voi nào.
Bố tôi reo lên:
- Chúng ta thành công rồi, thành công rồi!
Một giọng nói lạnh lùng vang lên sau lưng tôi:
- Những cái đó chưa phải là tất cả những điều mà các người đã làm được đâu.- Ông thị trưởng Steal và đứa con trai độc ác của ông đứng ngay đàng sau cha con tôi. Ông ta chỉ tay về hướng thành phố.
Chúng tôi quay mặt và sững người. Một lớp thịt cá voi thối tha rải đều khắp nơi. Những đoạn lòng, ruột vắt ngang dây điện và các cột ăng ten truyền hình. Những tảng thịt xám xịt, thối khắm tung tóe trên mặt đường.
Trước đó mùi thối đã kinh khủng thì giờ đây càng kinh tởm hơn nữa. Nó thối đến mức nước mắt nước mũi trào ra. Không có ngôi nhà nào là không có những mẩu thịt và những đoạn lòng thối tha treo lủng là lủng lẳng đó đây.
Viên thị trưởng lạnh lùng nói:
- Đừng tưởng là anh sẽ nhận được năm nghìn đôla. Số tiền đó phải dùng vào việc dọn dẹp, tẩy uế những thứ tởm lợm này. Ta nghĩ rằng ở cái thành phố này không có ai là người muốn nói chuyện với anh nữa đâu.
Cha tôi lắc đầu:
- Quả thật tôi không thể hiểu nổi. Làm sao nó lại có thể nổ tung lên thế cơ chứ? Với 32 thỏi thuốc nổ thì không thể có sức công phá kinh khủng như vậy được.
Tôi hét thật to và chỉ thẳng tay vào mặt thằng Nick đang nhe răng ra cười:
- Chính tại nó! Nó đã lấy cắp những sợi dây cháy chậm để trong hộp đếm. Chúng đang ở trong túi áo nó!
Ông thị trưởng quát:
- Này, mi đừng có đổ vấy cho con trai ta. Đừng có đổ lỗi cho những người đứng xem vô tội.
Bố tôi nói:
- Ông hãy khám người con trai ông, ông hãy tìm trong túi áo nó.
Ông thị trưởng nói: "Không!"
Thằng Nick chưa kịp quay đi thì bố tôi đã tóm cổ và kiểm tra túi áo nó. Túi chẳng có gì.
Tôi tức điên hét lên:
- Nó vứt đi rồi. Nó bao giờ cũng làm như thế sau khi ăn cắp. Chưa có ai bắt được nó. Tôi đã nhìn thấy dây cháy chậm trong túi áo nó. Tôi nhìn thấy chắc chắn như vậy.
Tôi khóc rưng rức, nhưng tôi không cần. Tôi đã uổng công chui vào bụng con vật kinh tởm đó và giờ đây chúng tôi có lẽ sẽ không bao giờ có nhà để ở. Viên tỉnh trưởng dõng dạc:
- Thật là một trò bịp trơ trẽn. Lúc đầu mày vu cho Nick. Sau đó cái thằng đê tiện này còn lục soát khám xét nó, nhưng nào có thấy gì? Ta buộc mày phải xin lỗi!
Bố tôi ỉu xìu, đầu gục xuống. Sau đó ông nhìn thằng Nick và nói: "Tôi lấy làm tiếc. Đáng ra tôi không được làm như thế".
Chúng tôi quay người, thất thểu đi về nhà qua những đường phố đầy những mảnh thịt cá voi hôi thối. Công nhân công ty vệ sinh đã bắt đầu dọn dẹp, tổng vệ sinh. Chúng tôi thấy vô cùng khổ tâm và đau lòng. Thế là chúng tôi đã để tuột cơ hội kiếm năm nghìn đôla. Mà tất cả chỉ vì thằng Nick khốn kiếp.
Tôi buồn bã nói:
- Giờ thì chúng ta sẽ không bao giờ có nhà nữa, trừ phi chúng ta trúng xổ số.
Bố trầm tư nói:
- Hoặc tìm thấy một tảng ambra.
Tôi hỏi:
- Ambra là cái gì hả bố?
Bố nói:
- Khi một con cá voi bị ốm đôi khi trong ruột nó tạo nên cái chất này. Một cục ambra đắt tiền lắm nhưng trong nghìn con cá bị ốm họa hoằn mới có một con có ambra.
Tôi như bừng tỉnh:
- Bố ơi hình dáng cái ambra đó như thế nào?
- Chịu, bố không biết một tí gì cả - Bố nói và nhìn chằm chằm những mẩu thịt nằm trên đường.
Khi về đến chiếc xe nhà, tôi nhìn thấy những mẩu thịt cá ở trên nóc xe. Một cửa sổ bị vỡ. Tôi vào trong xe và thấy trên chiếc gối của mình một cục gì tròn tròn màu xám to bằng quả bóng chày. Có lẽ đây là một chất gì đó trơn tuột, bầy nhầy ở trong bụng con cá voi. Tôi đem nó ra ngoài và đặt trên bậu cửa chiếc xe.
Sau đó bố và tôi đi giúp những người công nhân làm vệ sinh.
Khi rời khu để xe làm nhà ở, tôi trông thấy thằng Nick nhìn chúng tôi từ cửa sổ nhà nó. Hắn quan sát chúng tôi bằng ống nhòm. Tôi làm bộ như không nhìn thấy nó.
Chúng tôi giúp mọi người tẩy rửa dọn dẹp quần quật cả một ngày trời. Chúng tôi thu nhặt những mẩu thịt hôi thối và cho vào thùng đựng rác. Sau đó đưa ra xe để đổ. Những người ở thành phố thường không nói nhiều. Nhiều người mến bố tôi và ai cũng thấy rằng ông muốn sửa chữa sai lầm bằng cách tham gia thu dọn.
Mãi đến xế chiều, khi đang cọ rửa khu trường học thì ông thị trưởng Steal đi chiếc xe Jaguar đến bên cạnh chỗ chúng tôi. Ông cùng đi với một người đàn ông bé nhỏ tóc muối tiêu. Ông ta nói:
- Đây là ông Proust. Ông ấy muốn nói chuyện với các người.
Ông Proust nói giọng the thé. Ông nhìn tôi cởi mở và hỏi: "Cậu là người đã chui vào bụng con cá voi phải không?
- Vâng. - tôi đáp lạnh nhạt.
Ông ta chìa bức ảnh màu và hỏi tiếp: Cậu có thấy cái gì giống na ná như cái này không?
Tôi hỏi:
- Thưa ông, cái gì vậy?
- Cái này là ambra, một chất ở trong bụng cá voi. Nó được dùng làm nước hoa, loại nước hoa tốt nhất trên thế giới. Nhưng giờ đây do không được săn bắt cá voi cho nên chất này trở nên rất khan hiếm.
Tôi nhìn chằm chằm bức ảnh và thấy cái chất màu xám, xôm xốp từ bên trong con cá voi. Có lẽ nó to bằng quả bóng bầu dục.
Cái ông bé nhỏ có vẻ sốt ruột, ông ta nói:
- Một cục cỡ này trị giá khoảng mười nghìn đôla. Tôi sẽ trả cậu ngần ấy tiền đấy.
Trong bụng cá tối om, tôi không thấy gì cả. Tôi lắc đầu. Đúng lúc đó tôi sực nhớ. Và tôi nói:
- Ở chỗ xe làm nhà ở của tôi, tôi thấy có một cục rất giống.
Tất cả chúng tôi chen chúc vào trong chiếc Jaguar và ông thị trưởng lái đưa chúng tôi về nhà. Hình như vì một lý do nào đó ông ta muốn làm vừa lòng khách. Khi đi qua nhà ông thị trưởng, tôi trông thấy thằng Nick ở tầng trên. Hắn đang tung một cái gì đó như quả bóng.
Khi về đến nơi tôi không thấy cái cục ambra nằm ở bậu cửa nữa. Bố tôi nói:
- Có ai lấy mất rồi. - Trông ông thật buồn và mệt mỏi.
Tôi nói to:
- Tôi biết ai lấy rồi, tôi trông thấy thằng Nick cầm nó chơi khi chúng ta cho xe chạy qua. Hắn đang ở trong buồng.
Ông Proust luống ca luống cuống tay vung vẩy cuốn sổ. Ông thị trưởng nheo mắt hỏi:
- Các người lại muốn đổ vấy cho con trai ta đấy à? - Ông gằn giọng và tỏ ra rất giận dữ.
Bố nhìn tôi và hỏi:
- Con có chắc không? Con có thật dám chắc như thế không?
Tôi hít một hơi dài rồi nói:
- Con dám chắc như thế.
Bố tôi nói:
- Chúng ta có nên tìm trong buồng của Nick không? Troy không nói điêu đâu.
Ông thị trưởng xen vào:
- Và thằng Nick không ăn cắp.
Hai người đàn ông trừng mắt nhìn nhau.
Cuối cùng ông thị trưởng nói:
- Thôi được, ta cho phép các người được khám buồng Nick. Nếu như các người không tìm thấy thì các người phải hứa với ta một điều.
Bố hỏi:
- Điều gì?
- Nếu như các người không tìm thấy ambra trong buồng Nick thì ngay sáng mai các người phải cuốn xéo vĩnh viễn khỏi thành phố này và không bao giờ được quay trở lại.
Bố và tôi đưa mắt nhìn nhau. Cả hai cùng có chung một ý nghĩ. Chúng tôi không muốn rời nơi đây. Chúng tôi thích sống ở thành phố cảng Niranda. Bạn bè chúng tôi đều sống ở đây. Mộ mẹ tôi cũng ở nghĩa trang thành phố này. Vì thế chúng tôi không muốn đi khỏi nơi này.
Sau một thời gian im lặng khá dài bố tôi nói:
- Được, chúng ta khám căn buồng và nếu không tìm thấy gì cả thì chúng tôi sẽ rời khỏi Niranda vào sáng mai. - Mắt cha tôi ươn ướt.
Tất cả chen lấn vào buồng thằng Nick. Nó hét tướng lên với bố nó:
- Con không lấy gì cả. Các người muốn xem cái gì thì xem. - Và cười rất đểu cáng. Tôi cảm thấy chờn chờn. Còn nó tỏ ra không một chút băn khoăn lo lắng.
Bố và tôi lục tìm trong căn phòng, còn những người khác đứng quanh quẩn và nhìn. Chúng tôi tìm cả tiếng đồng hồ. Không thấy gì. Chúng tôi lật đệm. Xem trong tủ, trong ngăn kéo. Tìm khắp nơi.
Thằng Nick nói với bố:
- Ngay đến bóng con cũng không có, phải không bố?
Ông Steal nói:
- Phải! Thôi, như thế đủ rồi. Trong phòng này không có ambra. Ta hy vọng các người ngay sáng sớm ngày mai phải rời khỏi thành phố này.
Tôi nhìn cha tôi. Bỗng nhiên cha tôi trông già xọp hẳn đi. Ông rụt rè hỏi: "Liệu tôi có được đến đây để thăm mộ vợ tôi không?"
Lão thị trưởng lắc đầu và trả lời:
- Quân tử nhất ngôn!
Thằng Nick cười khoái trá đầy vẻ độc ác.
Tôi nhìn đồng hồ trên tường. Mười sáu giờ. Đã đến lúc phải đi.
Đúng lúc chúng tôi quay gót định đi thì tôi nghe thấy một điệu nhạc quen quen rất nhỏ.
Đó là bản nhạc "Greensleeves".
Tôi reo lên:
- Kia kìa, dưới tấm thảm!
Bố chạy bổ tới chỗ đó và kéo tấm thảm ra một bên. Bên dưới có chiếc cửa gấp nhỏ. Ông giật mạnh và lôi ra cục ambra. Ngoài ra còn thấy một chiếc đồng hồ nhỏ lấp lánh. Đó là chiếc đồng hồ của tôi. Chiếc đồng hồ mà tôi đã đánh mất trong bụng con cá voi. Có lẽ khi con cá voi bị nổ tung, cái đồng hồ đó đã bị ép chặt vào khối ambra. Tôi đã để đồng hồ báo giờ vào lúc 16 giờ.
Và bây giờ nó nổi nhạc.
Thằng Nick chạy ra khỏi buồng khóc thút thít. Bố nó đuổi theo, tay vung nắm đấm, luôn miệng chửi nó là đồ ăn cắp, đồ lừa đảo.
Ông Proust cười rạng rỡ. Ông lấy tấm séc và điền vào đó. Khi đưa cho bố, ông nói:
- Mười nghìn đôla và cháu tìm thấy chiếc đồng hồ rồi nhé.
Bố và tôi nhìn chiếc đồng hồ vấy bẩn cười sung sướng. Nó vẫn ngân lên bản nhạc "Greensleeves".
Lê Xuân Hoài dịch
Phần 1