![]() |
Cao nguyên Nam trung bộ trồng cà phê trên quy mô lớn, gây nên rút kiệt nước ngầm nhanh chóng. |
Theo TS Nghiệp, thuộc Hội Địa chất Việt Nam, bổ sung nước ngầm nhân tạo là việc làm tăng trữ lượng nước ngầm bằng cách nạp thêm các nguồn nước từ bên ngoài (nước mưa, nước mặt) vào các tầng chứa nước sẵn có hoặc vào các tầng đất đá có khả năng trữ nước. Việc bổ sung này có thể bù lại lượng nước ngầm bị tiêu hao do những nguyên nhân tự nhiên (như tiêu thoát tự nhiên, hạn hán, bốc hơi ngầm...) hoặc nhân tạo (khai thác quá mức, phá rừng làm mất nguồn cung cấp tự nhiên...).
Nhờ nguồn bổ sung, nước ngầm được dự trữ nhiều hơn, giúp điều tiết nguồn nước giữa mùa mưa và mùa khô (tích trữ phần thừa trong mùa mưa để sử dụng trong mùa khô); ngăn chặn xâm nhập mặn hay các chất thải độc hại; tạo cân bằng áp lực trong lòng đất, chống sụt lún bề mặt do khai thác nước ngầm hay do tháo khô mỏ. Nếu tầng nước ngầm bị nhiễm bẩn trước đó, thì sau khi được nạp nước sạch từ ngoài vào, chất lượng nước ngầm sẽ được cải thiện. Nhờ có nước bổ sung, mực nước ngầm dâng cao, làm tăng độ ẩm của đất, tạo điều kiện cho thực vật phát triển, chống nạn sa mạc hóa.
Biện pháp bổ sung
Có thể nạp nước ngầm bằng cách xây dựng các công trình tích trữ nước mưa, nước mặt, nước lũ dưới dạng hồ chứa, kênh đào..., từ đó nước thấm vào lòng đất, bổ sung cho các tầng chứa nước ngầm nằm nông (phương pháp thấm thẳng đứng).
Đối với tầng chứa nước nằm sâu hoặc bị phủ bởi lớp cách nước dày, cần làm các công trình như lỗ khoan, giếng đào, lò đứng... có chiều sâu lớn để cho nước từ trên mặt xâm nhập tự nhiên hoặc được nén ép vào tầng chứa nước (phương pháp chôn vùi). Sau khi được nạp, lòng đất biến thành “kho chứa nước ngầm”, có dung tích lớn mà không chiếm nhiều diện tích đất đai trên mặt, lại hạn chế được sự tổn thất do bốc hơi. Khi cần lấy nước người ta mới “mở kho” bằng cách khoan giếng ở bất cứ nơi nào trong phạm vi phân bố của tầng chứa nước và bơm hút lên để dùng ngay tại chỗ, không cần phải làm đường dẫn dài như các công trình khai thác nước mặt.
Khả năng áp dụng ở nước ta
Nước ta có khí hậu nhiệt đới gió mùa, mưa nhiều, nhưng phân bố không đều theo thời gian. Điều đó buộc chúng ta phải nghĩ đến việc bổ sung nước ngầm nhân tạo để điều tiết giữa mùa mưa và mùa khô. Các vùng có khả năng áp dụng phương pháp này là duyên hải và cao nguyên Nam Trung Bộ.
Ở cao nguyên Nam Trung Bộ, phần lớn lãnh thổ được cấu tạo bởi các đá núi lửa phun trào (bazan). Phần trên mặt đá bị phong hóa mãnh liệt thành sét, bụi hạt mịn màu đỏ, khả năng thấm nước rất kém, chiều dày rất lớn (20-30 m và hơn nữa). Phần dưới là đá rắn chắc gồm nhiều tầng. Mỗi tầng gồm phía trên là đá nứt nẻ, lỗ hổng có khả năng chứa nước tốt, phía dưới là đá nguyên khối, đặc sít, cách nước. Chúng thường cách ly lẫn nhau, nhưng nếu đáy tầng chứa nước bị khoan thủng thì nước có thể chảy sang tầng đá khô, tạo nên một tầng chứa nước mới. Đó là tiền đề cho việc bổ sung nước ngầm nhân tạo bằng phương pháp chôn vùi, nghĩa là khoan đào giếng, lò đứng, xuyên thủng qua các lớp cách nước vào các tầng đất đá có khả năng giữ nước để nạp nước từ trên mặt xuống. Nguồn cung cấp được dẫn từ các sông suối, đầm hồ tự nhiên hay nhân tạo. Ở những nơi có lớp cách nước trên mặt mỏng hoặc có đá trầm tích bở rời thì có thể áp dụng phương pháp thấm thẳng đứng hoặc kết hợp 2 phương pháp.
Cao nguyên Nam Trung Bộ cũng có lượng mưa tương đối lớn nhưng do địa hình cao, bị chia cắt mạnh, nước tiêu thoát nhanh nên nguồn dự trữ nghèo. Thêm vào đó, trong những năm gần đây việc khai thác nước để tưới cà phê về mùa khô được mở rộng với qui mô lớn làm cạn kiệt các nguồn nước mặt, còn nước ngầm cũng bị suy giảm mạnh, khiến cho mực nước hạ thấp rất sâu, hầu hết giếng khoan bị khô đến đáy. Vì thiếu nước, cà phê và hoa màu tàn héo, gây thiệt hại nặng nề. Theo nguyên tắc “có vay có trả” bằng cách bổ sung nước ngầm nhân tạo, có thể tránh được, hay ít ra là hạn chế những thiệt hại về nông nghiệp và môi trường.
(Theo SGGP)