Theo luật sư Hoàng Anh Sơn (Đoàn luật sư TP HCM), trước hoặc sau khi kết hôn thì vợ, chồng có thể phát sinh các khoản nợ chung hoặc nợ riêng của mỗi người.
Theo quy định tại Điều 37 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 về nghĩa vụ chung của vợ chồng, thì có thể hiểu "nợ chung" là các khoản nợ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm. Khoản nợ do vợ chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình, con cái hoặc các khoản nợ khác theo quy định của pháp luật.
Khoản 1, khoản 3 Điều 45 luật này cũng quy định nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ chồng - tức "nợ riêng" có thể hiểu là những khoản nợ phát sinh của mỗi bên trước khi kết hôn, khoản nợ không phát sinh từ giao dịch chung của vợ chồng, các khoản nợ phát sinh từ hoạt động cá nhân của mỗi bên, không nhằm mục đích phục vụ cho gia đình hoặc sinh hoạt chung của gia đình.
Do đó, nếu giao dịch vay nợ của chồng bạn do anh ấy thực hiện trước khi kết hôn; bạn không tham gia xác lập; thực hiện không vì nhu cầu của gia đình thì sẽ được coi là khoản nợ riêng của người chồng; và người vợ sẽ không có nghĩa vụ phải trả.
Theo như bạn nói thì chồng bạn cũng thừa nhận đây là khoản nợ của anh ấy từ trước khi kết hôn. Khoản vay này không nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình cũng không dùng để tạo lập khối tài sản chung hoặc tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình.
Để chứng minh bạn không có trách nhiệm phải trả thì hãy xem giấy tờ vay nợ và biên nhận về việc bàn giao tiền được xác lập trước thời điểm bạn kết hôn.