Theo khoản 5 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật này về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn.
Như vậy, quan hệ vợ chồng được xác lập khi việc đăng ký kết hôn đúng pháp luật (trừ trường hợp hôn nhân thực tế được xác lập trước ngày 3/1/1987 thì không bắt buộc phải đăng ký kết hôn).
Việc tổ chức lễ cưới chỉ là phong tục truyền thống của dân tộc ta nhằm thông báo cho bà con, hàng xóm, mọi người biết hai người là vợ chồng nhưng nó không xác lập quan hệ vợ chồng về mặt pháp lý.
Căn cứ Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:
Thứ nhất, nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên.
Thứ hai, việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định.
Thứ ba, không bị mất năng lực hành vi dân sự.
Thứ tư, việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn, bao gồm:
- Kết hôn giả tạo.
- Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn.
- Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ.
- Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng.
Đồng thời, Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính.
Luật sư Phạm Thanh Hữu
Đoàn luật sư TP HCM