Điều 26 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về việc giao dịch đối với tài sản chung của vợ chồng như sau:
1. Việc đại diện giữa vợ và chồng trong việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch liên quan đến tài sản chung có giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản chỉ ghi tên vợ hoặc chồng được thực hiện theo quy định tại điều 24 và điều 25 của Luật này.
2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng có tên trên giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản tự mình xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch với người thứ ba trái với quy định về đại diện giữa vợ và chồng của Luật này thì giao dịch đó vô hiệu, trừ trường hợp theo quy định của pháp luật mà người thứ ba ngay tình được bảo vệ quyền lợi.
Khoản 3 điều 24, việc đại diện giữa vợ và chồng khi một bên mất năng lực hành vi dân sự, như sau:
Vợ, chồng đại diện cho nhau khi một bên mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có đủ điều kiện làm người giám hộ hoặc khi một bên bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà bên kia được tòa án chỉ định làm người đại diện theo pháp luật cho người đó, trừ trường hợp theo quy định của pháp luật thì người đó phải tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ có liên quan.
Như vậy, đối chiếu với những quy định nói trên, bạn phải làm đơn đề nghị tòa án tuyên bố chồng bạn bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức làm chủ hành vi theo quy định tại Điều 22, 23 Bộ luật dân sự; đồng thời tòa án chỉ định bạn là người giám hộ cho chồng.
Sau khi được tòa án chỉ định là người giám hộ, bạn có quyền đại diện theo pháp luật cho chồng bạn để chuyển nhượng phần tài sản của anh ấy trong khối tài sản chung vợ chồng.
Luật sư Đỗ Trọng Linh
Công ty Luật Bảo An, Hà Nội