Trong căn nhà ở Nam London, bà Linda Tobey, 68 tuổi, lật giở lại ký ức về chuyến du lịch xuyên Việt năm 1997. "Những kỷ niệm ùa về" khi bà nhìn tấm tờ rơi du lịch in đen trắng cũ, giấy đã ngả màu, thông tin về hành trình khám phá dọc ba miền Việt Nam. Khi đó, Việt Nam với vợ chồng bà là một cái tên mới mẻ và được biết đến qua các bản tin truyền hình "là đất nước từng trải qua chiến tranh".
Năm 1997, sau khi đi qua gần hết châu Âu, Trung Mỹ, Ai Cập, Trung Quốc, Indonesia, vợ chồng bà Tobey tìm kiếm một điểm đến chưa quá đông du khách, nơi có thể chạm vào nhịp sống địa phương và hòa mình vào văn hóa bản địa.
"Chúng tôi không muốn nghỉ dưỡng mà muốn phiêu lưu và tìm hiểu văn hóa", bà cho biết ngay khi đọc quảng cáo và vợ chồng bà đã quyết định đặt tour không do dự. Chuyến đi dài 21 ngày, theo hình thức tour nhóm nhỏ do công ty du lịch Explore (Anh) tổ chức, khởi hành từ Hà Nội và kết thúc tại TP HCM. Hướng dẫn viên là người Australia thông thạo tiếng Anh và tiếng Việt. Đoàn gồm 12 người đến từ Anh, Mỹ, Bỉ, Pháp, trong đó có một chàng trai ngoài 20 tuổi lần đầu ra nước ngoài và một cặp vợ chồng ngoài 50.
Năm 1997, chưa có đường bay thẳng từ London đến Việt Nam. Khách bay từ sân bay Heathrow phải quá cảnh tại Bangkok. Hành trình của bà được tổ chức theo dạng tour đường bộ, kết hợp di chuyển bằng ôtô, tàu hỏa và lưu trú tại các khách sạn nhỏ.
Tour 21 ngày đưa khách qua hầu hết điểm đến nổi bật dọc ba miền: từ Hà Nội, vịnh Hạ Long, đảo Cát Bà, Mai Châu, Ninh Bình, rồi đi tàu hỏa từ ga Hoa Lư vào miền Trung, dừng ở ga Đông Hà. Sau đó, đoàn đi tiếp chặng Huế, Đà Nẵng, Hội An, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Nha Trang, Đà Lạt và khép lại tại TP HCM.
Chuyến tàu duy nhất trong hành trình gần 20 tiếng là từ ga Hoa Lư đến ga Đông Hà. Giá vé giường nằm mềm khi đó là 437.000 đồng, đã bao gồm trong tour.
"Đoàn chúng tôi là những người nước ngoài duy nhất trên tàu, tiếc là không thể sang toa có người địa phương vì nhân viên đã khóa các toa nối", bà Tobey kể. Đoàn tàu sạch sẽ, giường có thể kéo xuống gọn gàng. Tàu không phục vụ đồ ăn, nhưng nhân viên mang trà đến cabin vào buổi sáng.
Nữ du khách Anh nhớ như in thời tiết hôm đó rất tệ, đúng lúc bão Linda lịch sử đổ bộ Việt Nam. Tàu chạy trong đêm mưa giông, gió giật liên hồi, cả nhóm ngủ suốt chuyến đi và không có cơ hội xuống ga hay trò chuyện với ai.
"Hành trình bằng đường bộ mới là cuộc phiêu lưu thực sự", bà Tobey cho biết 4 người trong đoàn đã bỏ dở giữa chừng để bay thẳng vào TP HCM vì không chịu nổi điều kiện di chuyển vất vả. Do bão, nhiều đoạn đường ở Quy Nhơn, dọc đường mòn Hồ Chí Minh bị lũ cuốn trôi, khiến việc đi lại vô cùng vất vả.
Có lúc, ôtô chở đoàn bị trượt khỏi đường, phải nhờ dân địa phương kéo lên. Trưởng làng đã hỗ trợ xe đi tiếp sau khi hướng dẫn viên "cảm ơn" bằng 50 USD.
"Không ai than phiền, tất cả đều biết ơn sự giúp đỡ ấy", bà Tobey nói.
Nữ du khách Anh cho hay hạ tầng du lịch Việt Nam 30 năm trước còn nhiều hạn chế. Khách đi đường bộ phải dừng ở các trạm xăng để đi vệ sinh và hầu hết đều thiếu tiện nghi. Đường sá rất ít ôtô, xe đạp ở khắp nơi, đường đất nông thôn dễ bị ngập khi mưa. Tuy vậy, những khó khăn đó không phải vấn đề vì mỗi vùng đất đi qua đều thú vị.
Di chuyển bằng đường bộ giúp họ có cơ hội dừng chân tại các khu chợ, làng mạc và trò chuyện với người dân. Ở một số nơi chưa từng đón khách du lịch, người dân, nhất là trẻ em, tỏ ra tò mò và liên tục đặt câu hỏi.
"Tại một khu chợ ở Quy Nhơn, một bà cụ còn vén váy tôi lên để xem tôi có trắng toàn thân không. Cả nhóm bật cười thích thú khi bà phát hiện đúng là tôi trắng thật", bà Tobey kể.
Nhiều kỷ niệm với người dân địa phương vẫn in đậm trong tâm trí bà. Tại Hòa Bình, một bà cụ mời cả đoàn uống rượu tự nấu rồi khoe chiếc quan tài con trai đã chuẩn bị sẵn, đặt ngay dưới gầm sàn nhà. Trên hành trình ra đảo Cát Bà, đoàn của bà phải ngủ ngoài boong tàu vì khách sạn duy nhất trên đảo không còn phòng trống. Ở Đà Nẵng, một thành viên trong đoàn bị sóng cuốn mất hàm răng giả. Khi đó bãi biển vắng tanh, chỉ có một đôi trẻ đang chụp ảnh cưới giữa khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ. Tại Hà Nội, bà không quên "bài học sang đường", là phải bước đều, "đi thẳng như con bò" và tuyệt đối không dừng lại.
Kỷ niệm khiến bà xúc động nhất là tại Hạ Long. Cả đoàn tìm được một quán ăn gia đình trong gara ôtô, không có thực đơn, chủ nhà nấu gì ăn nấy nhưng món nào cũng ngon. Khi đang dùng bữa, một người đàn ông đến lịch sự mời mua bưu thiếp và được cả đoàn mời ngồi ăn cùng. Ông từ tốn gọi một lon Coca nhưng xin mang về vì con trai ông chưa từng được uống.
"Tôi vẫn thường nghĩ về người đàn ông tử tế ấy, mong ông và gia đình đang có cuộc sống tốt", bà nói.
Năm 1997, du lịch Việt Nam còn là điểm mới mẻ trên bản đồ thế giới. Bà Tobey và chồng không gặp bất kỳ khách ngoại quốc nào ngoài ở các thành phố lớn. Sự hiện diện của họ ở vùng nông thôn là "điều lạ lẫm". Một số người dân có thể giao tiếp tiếng Anh và chủ động bắt chuyện. Dù ban đầu còn e dè, mọi người đều thân thiện và sẵn lòng giúp đỡ.
29 năm trước cũng là thời điểm Việt Nam chính thức có Internet. Bà Linda ấn tượng với các dự án lắp đặt cáp tại nhiều tỉnh thành phía Nam. Nhiều tuyến đường chính được đào rãnh bên lề, cho thấy tầm nhìn và tốc độ phát triển của thành phố.
"Ba tuần rong ruổi khiến chúng tôi mệt rã rời, nhưng những nơi đi qua thật sự rất tuyệt vời", bà Tobey nói và cho biết đã cùng chồng quay lại TP HCM vào năm 2003, ngay sau đợt dịch SARS. Khi đó, họ là một trong số ít du khách nước ngoài tại thành phố.
Hơn 20 năm qua, vợ chồng bà đã đi thêm nhiều nơi, luôn quan tâm đến Việt Nam nhưng chưa có dịp quay lại.
"Nhiều bạn bè tôi đã đến Việt Nam vài năm gần đây và kể về một đất nước mà tôi nghĩ mình sẽ không còn nhận ra nữa. Tôi vẫn giữ những ký ức tuyệt vời về chuyến đi năm xưa", bà Tobey nói.
Bích Phương
Ảnh: NVCC